Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

Về tệ sùng bái cá nhân (III)

Báo cáo của Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương (BCHTW) Đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), Nikita Sergeyevich Khrushyov tại phiên họp kín đại hội ĐCSLX lần thứ XX ngày 25 tháng Hai năm 1956.
Phạm Ngọc dịch từ tiếng Nga


Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó (tt)

Thưa các đồng chí! Chúng ta hãy đề cập đến một vài sự kiện khác. Liên Xô thật sự được xem là mẫu mực của một quốc gia nhiều dân tộc, vì trong thực tế chúng ta đảm bảo bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc chung sống trên lãnh thổ rộng lớn của tổ quốc.
Như thế, những hành động do Stalin đề xướng vi phạm trắng trợn những nguyên tắc Lê-nin-nit căn bản về chính sách dân tộc của nhà nước Liên Xô, thật đáng công phẫn biết nhường nào! Câu chuyện là về việc đày ải hàng loạt các dân tộc khỏi mảnh đất quê hương của họ, trong số đó có cả những người cộng sản, những đoàn viên thanh niên cộng sản, không chừa một ai. Không một luận điểm quân sự nào có thể biện minh cho sự đày ải loại này.
Cuối năm 1943, khi trên khắp các mặt trận của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã xác định một cách chắc chắn kết cục cuộc chiến đang nghiêng về phía Liên Xô, một nghị quyết được thông qua về việc di dân Karachai khỏi mảnh đất họ đang cư trú. Vào thời kì đó, cuối tháng 12-1943, dân chúng nước cộng hòa tự trị Kalmyk cũng chịu chung số phận. Tháng 3-1944, dân Chechen và Ingush bị xua đuổi khỏi mảnh đất họ đang sống, còn nước cộng hòa tự trị Chechen-Ingush bị giải tán. Tháng 4-1944, dân Balkar bị đuổi khỏi lãnh thổ nước cộng hòa tự trị Kabardino-Balkar đến các vùng xa khác, bản thân nước cộng hòa này bị đổi tên thành cộng hòa tự trị Kabardin. Dân Ukraina thoát được số phận trên bởi họ quá đông nên không biết đưa đi đâu. Nếu không thì họ cũng bị đi đày hết rồi. (Cười lớn và xôn xao trong phòng.)
Trong ý thức không chỉ của những người Mac-xit Lê-nin-nit, mà bất cứ ai có chút suy nghĩ lành mạnh cũng không thể giải thích nổi sao lại có thể đổ trách nhiệm về hành động thù địch của một số người riêng lẻ hay một nhóm người lên đầu cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ em, người già, đảng viên cộng sản, đoàn viên thanh niên cộng sản, và áp dụng đàn áp hàng loạt, tước đoạt và gây đau khổ cho họ.
Sau khi chiến tranh vệ quốc kết thúc, nhân dân Xô-viết với niềm tự hào kỉ niệm chiến thắng vinh quang, đạt được bằng sự hi sinh vô bờ bến và những nỗ lực vô cùng to lớn. Cả nước như sống trong một cơn sảng khoái chính trị. Đảng ta sau chiến tranh lại càng đoàn kết hơn trước, trong ngọn lửa chiến tranh đội ngũ cán bộ đảng đã được tôi luyện. Trong những điều kiện như thế, làm sao trong đầu óc của một ai đó trong đảng lại có thể nảy sinh ý nghĩ về một âm mưu gì.
Và chính trong thời kì này bỗng nhiên cái gọi là "vụ án Leningrad" đã phát sinh. Ngày nay đã chứng tỏ được vụ án là hoàn toàn ngụy tạo. Các đồng chí bị sát hại một cách oan uổng gồm có Voznesensky, Kuznetsov, Rodionov, Popkov và nhiều người khác.
Được biết, Voznesensky và Kuznetsov là những cán bộ ưu tú và tài ba. Họ đã có thời gần gũi với Stalin. Đủ cơ sở để nói Stalin đã cất nhắc Voznesensky vào cương vị phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng, còn Kuznetsov được bầu làm bí thư BCHTW. Nội việc Stalin ủy nhiệm Kuznetsov giám sát các cơ quan an ninh quốc gia đủ nói lên Kuznetsov được tin tưởng đến mức nào.
Sao có thể xảy ra chuyện những người này bị tuyên bố là kẻ thù của nhân dân và bị thủ tiêu?
Những sự kiện đã cho thấy "vụ án Leningrad" là biểu hiện của sự chuyên quyền mà Stalin đối với các cán bộ đảng.
Nếu như trong BCHTW và Bộ Chính trị tình hình diễn ra bình thường thì những vấn đề tương tự đã được bàn bạc theo quy định và mọi sự kiện đều được cân nhắc, và vụ này, cũng như các vụ tương tự, đã không thể nào xảy ra được.
Cần phải nói thời kì sau chiến tranh, tình hình ngày càng phức tạp. Stalin ngày càng thất thường hơn, nóng nảy hơn, thô bạo hơn; đặc biệt tính đa nghi ngày càng gia tăng. Bệnh săn đuổi cuồng bạo đã đạt tới mức không thể tưởng tượng nổi. Nhiều cộng sự đã trở thành kẻ thù trong mắt Stalin. Sau chiến tranh, Stalin ngày càng tách rời tập thể, một mình định đoạt mọi việc, không để ý đến một ai hoặc một sự kiện nào cả.
Tính đa nghi không thể tưởng tượng nổi của Stalin đã được một tên khiêu khích đê tiện, một kẻ thù hèn hạ lợi dụng một cách khéo léo, đó là Beria, kẻ đã sát hại hàng ngàn người cộng sản và thường dân Xô-viết trung thực. Sự thăng tiến của Voznesensky và Kuznetsov khiến Beria lo ngại. Hiện nay đã xác định chính Beria đã "ném đá giấu tay", y và đồng bọn đã dựng lên những tài liệu dưới hình thức đơn tố cáo, thư nặc danh cùng mọi thứ đồn thổi và đơm đặt khác để trình lên Stalin.
BCHTW đã kiểm tra vụ án có tên gọi "vụ án Leningrad", những người vô tội chịu đau khổ đã được minh oan và phục hồi danh dự, danh dự của tổ chức đảng Leningrad được phục hồi. Những kẻ làm giả vụ án như Abakumov và bè lũ bị đưa ra tòa án, chúng bị xét xử tại Leningrad và đã đền tội một cách đích đáng.
Xuất hiện câu hỏi: tại sao đến giờ chúng ta mới vạch trần được vụ việc, mà không phải trước kia, lúc sinh thời Stalin, để ngăn cản việc những người vô tội bị giết hại? Bởi vì Stalin đã đích thân lưu tâm đến "vụ án Leningrad" và đa số ủy viên Bộ Chính trị khi đó không biết chi tiết của vụ này, đương nhiên, họ không thể can thiệp.
Khi Stalin nhận được những tài liệu do Beria và Abakumov chuyển đến, đồng chí không hề xem xét bản chất những hồ sơ giả mạo mà lập tức ra chỉ thị điều tra "vụ án" của Voznesensky và Kuznetsov. Điều này đã định đoạt số phận của họ.
Vụ án tổ chức dân tộc Mingrelian, chừng như hoạt động ở Gruzia, cũng là một vụ đáng để học tập. Như đã biết, nghị quyết về vụ này đã được BCHTW ĐCSLX thông qua hồi tháng 11-1951 và tháng 3-1952, nhưng không hề được thảo luận trước ở Bộ Chính trị. Stalin đã đích thân đọc cho người ta viết những nghị quyết ấy. Trong đó đã buộc tội rất nặng nề nhiều đảng viên cộng sản trung kiên. Trên cơ sở những tài liệu được đưa ra, người ta khẳng định tại Gruzia chừng như tồn tại một tổ chức dân tộc đặt mục tiêu là xóa bỏ chính quyền Xô-viết ở nước cộng hòa với sự viện trợ của các nước đế quốc.
Hệ lụy là hàng loạt cán bộ lãnh đạo đảng và nhà nước Gruzia bị bắt giam. Sau này mới xác định đây chỉ là chuyện vu khống nhằm vào các tổ chức đảng Gruzia.
Chúng ta biết ở Gruzia, cũng như tại nhiều nước cộng hòa khác, có những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản địa phương. Xuất hiện câu hỏi, có thể, thực tế vào thời kì khi những nghị quyết nói trên được thông qua, những khuynh hướng dân tộc có phát triển đến mức trở thành mối đe dọa khiến Gruzia tách ra khỏi Liên bang Xô-viết và sáp nhập với Thổ Nhĩ Kì? (Ồn ào và cười lớn trong phòng họp.)
Tất nhiên, toàn là chuyện nhảm nhí. Khó mà tưởng tượng nổi những đề xuất tương tự như thế lại có thể chui vào đầu được. Ai cũng biết Gruzia đã phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa dưới chế độ Xô-viết.
Sản lượng công nghiệp của cộng hòa Gruzia đã tăng gấp 27 lần so với thời kì trước cách mạng. Tại nước cộng hòa đã thiết lập nhiều ngành công nghiệp chưa có trước cách mạng như luyện kim đen, công nghiệp dầu khí, chế tạo máy, v.v... Nạn mù chữ đã được thanh toán từ lâu, trong khi trước cách mạng tỉ lệ này là 78% dân số.
So sánh tình hình trong nước cộng hòa của mình với tình trạng trì trệ của nhân dân lao động Thổ Nhĩ Kì, có thể nào người dân Gruzia phấn đấu để hợp nhất với Thổ Nhĩ Kì hay không? Tại Thổ Nhĩ Kì vào năm 1955, sản lượng thép tính theo đầu người nhỏ hơn của Gruzia 18 lần. Tại Gruzia, sản lượng điện năng tính theo đầu người nhiều gấp 9 lần Thổ Nhĩ Kì. Theo số liệu thống kê năm 1950, tỉ lệ mù chữ ở Thổ Nhĩ Kì là 65% dân số, tỉ lệ này lên đến 80% ở phụ nữ. Tại Gruzia có 19 trường đại học và cao đẳng với 39 ngàn sinh viên, nghĩa là nhiều gấp 8 lần Thổ Nhĩ Kì (tính trên một ngàn nhân khẩu). Tại Gruzia trong những năm dưới chế độ Xô-viết đời sống vật chất của nhân dân lao động được nâng cao chưa từng thấy.
Hiển nhiên, cùng với nhịp độ phát triển kinh tế và văn hóa tại Gruzia, sự giác ngộ chủ nghĩa xã hội của nhân dân lao động được nâng cao, đất sống cho chủ nghĩa dân tộc tư sản teo dần và biến mất.
Và thực tế cho thấy, chẳng có một tổ chức dân tộc nào ở Gruzia cả. Hàng ngàn người Xô-viết vô tội đã trở thành nạn nhân của sự chuyên quyền và coi thường pháp luật. Và tất cả những điều này được thực hiện dưới sự lãnh đạo "thiên tài" của Stalin - "người con vĩ đại của dân tộc Gruzia", như dân chúng Gruzia vẫn yêu mến gọi người đồng hương vĩ đại của mình. (Xôn xao trong phòng họp.)
Sự chuyên quyền của Stalin đã bộc lộ không những trong các quyết định về vấn đề sinh hoạt nội bộ của đất nước, mà còn trong những lĩnh vực quan hệ quốc tế của Liên Xô.
Tại hội nghị toàn thể BCHTW vào tháng Bảy đã thảo luận cặn kẽ những nguyên nhân gây ra xung đột với Nam Tư. Trong đó, dễ nhận thấy vai trò vô lí của Stalin. Trong "vụ Nam Tư" không có vấn đề nào không thể giải quyết được bằng thảo luận mang tính đảng giữa các đồng chí với nhau. "Vụ" này phát sinh không vì một nguyên cớ nào nghiệm trọng, hoàn toàn có khả năng tránh cắt đứt quan hệ với nước này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các lãnh tụ Nam Tư không phạm sai lầm hay thiếu sót. Nhưng những sai lầm và thiếu sót đó đã được Stalin cường điệu lên một cách quái đản, đã dẫn đến cắt đứt quan hệ với một nước anh em.
Tôi còn nhớ những ngày đầu khi xung đột giữa Liên Xô và Nam Tư bắt đầu được thổi phồng một cách có dụng ý.
Một lần từ Kiev về Moskva, tôi được Stalin mời đến gặp, chỉ vào bản sao bức thư sắp sửa gửi cho Tito, Stalin hỏi:
- Đồng chí đọc chưa?
Rồi không đợi câu trả lời, đồng chí nói:
- Tôi chỉ cần nhúc nhích ngón tay út là Tito sẽ không còn. Hắn sẽ đổ...
Chúng ta đã phải trả giá đắt cho việc "nhúc nhích ngón tay út". Lời tuyên bố này phản ánh bệnh vĩ cuồng của Stalin, và đồng chí vẫn luôn làm thế: nhúc nhích ngón tay út - Kosior không còn, nhúc nhích ngón tay út lần nữa - Postyshev, Chubar cũng không còn, nhúc nhích ngón tay út thêm một lần - Voznesensky, Kuznetsov và nhiều người khác nữa đều biến mất.
Nhưng chẳng có gì xảy ra với Tito. Stalin ra sức nhúc nhích chẳng những mỗi ngón tay út mà còn mọi thứ khác có thể, Tito vẫn không đổ. Vì sao? Bởi vì trong xung đột với các đồng chí Nam Tư, sau lưng Tito còn có cả một nhà nước, một dân tộc đã trải qua trường chiến đấu cam go để giành được tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ những lãnh tụ của họ.
Đấy bệnh vĩ cuồng của Stalin đã dẫn tới đâu. Đồng chí hoàn toàn mất cảm giác thực tế, bộc lộ tính ngờ vực, trịch thượng không những đối với những cá nhân riêng lẻ trong nước, mà còn đối với các đảng và các nước khác nữa.
Hiện nay, chúng tôi đã nghiên cứu kĩ lưỡng vấn đề Nam Tư và tìm ra giải pháp đúng đắn, được các dân tộc Liên Xô và Nam Tư ủng hộ, quần chúng lao động các nước dân chủ nhân dân và nhân loại tiến bộ hoan nghênh. Việc xóa bỏ quan hệ bất thường với Nam Tư được thực hiện tôn trọng quyền lợi của phe xã hội chủ nghĩa và vì lợi ích củng cố nền hòa bình thế giới.
Cần nhắc lại "vụ án các bác sĩ đầu độc". (Xôn xao trong phòng họp.) Thật ra, chẳng có "vụ án" nào ở đây cả, ngoài đơn tố cáo của bác sĩ Timashuk (bà ta là cộng tác viên không chính thức của cơ quan an ninh quốc gia), có khả năng do ai đó xúi bẩy hoặc chỉ thị, đã viết thư cho Stalin, trong đó tố cáo các bác sĩ chừng như sử dụng những phương pháp điều trị không đúng đắn.
Chỉ một bức thư như thế cũng quá đủ với Stalin, đồng chí rút ra ngay kết luận ở Liên Xô có những bác sĩ chuyên đầu độc, và ra chỉ thị bắt giam một nhóm chuyên gia y tế lừng danh. Đồng chí còn đích thân ra chỉ thị về cách thức điều tra cũng như hỏi cung những người bị bắt. Stalin bảo phải cùm viện sĩ Vinogradov bằng xích sắt và tra tấn. Đồng chí Ignatiev, cựu bộ trưởng an ninh quốc gia, đang có mặt ở đây với tư cách đại biểu đại hội. Stalin đã tuyên bố thẳng thừng với đồng chí:
- Nếu không khai thác được lời thú tội của bọn bác sĩ, cái đầu đồng chí sẽ không còn trên cổ. (Xôn xao phẫn nộ trong phòng họp).
Stalin đích thân gọi cán bộ điều tra đến để hướng dẫn và chỉ đạo phương pháp điều tra, phương pháp đơn giản và duy nhất: đánh, đánh nữa, đánh mãi.
Ít lâu sau khi các bác sĩ bị bắt, chúng tôi, những ủy viên Bộ Chính trị, nhận được những biên bản ghi lời thú tội của các bác sĩ. Sau khi phát những biên bản đó, Stalin bảo chúng tôi:
- Các đồng chí mù lòa như lũ mèo con chưa mở mắt, nếu như không có tôi, có khi đất nước bị diệt vong rồi, chỉ vì các đồng chí không nhận biết được kẻ thù.
Vụ này được bố trí để không ai có khả năng kiểm tra được những sự kiện làm căn cứ để tiến hành điều tra. Cũng không có khả năng kiểm tra bằng cách tiếp xúc với những người đã thú nhận tội lỗi của họ.
Nhưng chúng tôi có cảm giác vụ bắt giam các bác sĩ không được sạch sẽ. Chúng tôi biết nhiều người trong số đó vì họ đã chữa bệnh cho chúng tôi. Sau khi Stalin chết, chúng tôi xem xét lại "hồ sơ" đã được lập như thế nào, và thấy rõ là giả dối từ đầu chí cuối.
Stalin đã dựng lên "vụ án" ô nhục này, nhưng chưa kịp làm đến cùng (theo cách hiểu của đồng chí ấy), và vì thế các bác sĩ mới còn sống sót. Hiện nay họ đã được minh oan, phục hồi danh dự, và trở lại công tác trên cương vị như trước kia, chữa trị cho cán bộ lãnh đạo, kể cả thành viên chính phủ. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng họ, và họ thực hiện bổn phận của mình một cách lương thiện, cũng như trước kia.
Beria, kẻ chiếm được lòng tin của Stalin, tay sai của gián điệp nước ngoài, kẻ thù cực kì phản động của đảng ta, đã đóng vai trò đê tiện trong việc dàn dựng các loại vụ việc dơ bẩn và nhục nhã. Tên nội gián ấy làm thế nào mà có thể đạt được địa vị trong đảng và nhà nước, để rồi trở thành phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng Liên Xô và ủy viên Bộ Chính trị BCHTW? Hiện nay đã xác định tên đốn mạt này đã bước qua biết bao nhiêu xác chết để leo lên những nấc thang chính quyền.
Có những dấu hiệu nào về việc Beria là kẻ thù của đảng? Vâng, có. Ngay từ năm 1937 tại hội nghị toàn thể BCHTW, cựu ủy viện đặc trách y tế Kaminsky đã phát biểu Beria làm việc cho tổ chức phản gián Mussavat. Hội nghị toàn thể BCHTW chưa kịp kết thúc thì Kaminsky đã bị bắt và sau đó bị xử bắn. Stalin có kiểm tra lại tuyên bố của Kaminsky không? Không, vì Stalin tin tưởng Beria và với Stalin thế là quá đủ. Một khi Stalin đã tin như thế, không ai có thể phát biểu ngược lại ý kiến đồng chí; ai nghĩ đến chuyện phản đối, kẻ ấy sẽ chịu chung số phận như Kaminsky.
Còn những dấu hiệu khác nữa. Đáng chú ý hơn cả là đơn của đồng chí Snegov gửi BCHTW (nhân tiện nói thêm là cách đây không lâu Snegov đã được phục hồi danh dự sau 17 năm trong trại cải tạo). Trong đơn đồng chí viết như sau:
"Liên quan đến dự định phục hồi danh dự cho đồng chí Kartvelishvili-Lavrentyev, cựu ủy viên BCHTW, tôi đã trao cho đại diện KGB một bản khai chi tiết về vai trò của Beria trong việc thanh trừng Kartvelishvili và những nguyên cớ tội lỗi đã dẫn dắt Beria trong việc này.
Tôi nhận thấy cần phải khôi phục lại sự kiện quan trọng trong vấn đề này và báo cáo BCHTW, vì tôi thấy không tiện đưa dữ kiện này vào hồ sơ điều tra.
Ngày 30-10-1931, tại cuộc họp của Ban tổ chức trung ương ĐCSLX, đồng chí Kartvelishivili, bí thư ủy ban liên tỉnh Zakavkaz đọc bản báo cáo. Tất cả ủy viên ban chấp hành liên tỉnh đều có mặt, trong đó có tôi còn sống sót. Tại cuộc họp này, cuối bài diễn văn, Stalin đề nghị tổ chức lại ban bí thư của ủy ban liên tỉnh Zakavkaz với thành phần: bí thư thú nhất Kartvelishivili, bí thư thứ hai Beria (đây là lần đầu tiên trong lịch sử đảng, cái tên Beria được đưa ra ứng cử một chức vụ trong đảng), ngay lúc đó Kartvelishivili phản ứng lại là đồngchí đã biết rõ Beria và vì thế, dứt khoát từ chối cộng tác với Beria. Khi đó, Stalin đề nghị để ngỏ vấn đề này và sẽ quyết định sau trong quá trình làm việc. Hai ngày sau có quyết định cử Beria giữ chức vụ trong đảng, còn Kartvelishivili bị thuyên chuyển khỏi vùng Zakavkaz.
Các đồng chí Mikoyan A. I. và Kaganovich L. M. tham dự phiên họp này và có thể chứng thực điều đó.
Nhiều người đều biết quan hệ thù địch giữa Kartvelishivili và Beria kéo dài trong nhiều năm; phát sinh từ thời đồng chí Sergo (bí danh của Orjonikidze) còn công tác ở Zakavkaze, khi Kartvelishivili là cộng sự gần gũi nhất của Sergo. Điều đó thúc đẩy Beria làm giả "hồ sơ" chống lại Kartvelishivili.
Điều đặc trưng là theo "hồ sơ" này, Kartvelishivili bị cáo buộc có hành động khủng bố nhằm ám hại Beria".
Trong bản cáo trạng vụ án Beria đã trình bày rất chi tiết những tội ác của y. Tuy nhiên, cũng nên nói riêng vài sự việc, vì có khả năng không phải tất cả đại biểu đại hội đã đọc tài liệu này. Ở đây tôi muốn nói đến vụ thanh trừng thú vật của Beria đối với Kedrov, Golubiov và bà Baturina, mẹ nuôi của Golubiov, những người có ý định báo cho BCHTW về hoạt động phản bội của Beria. Họ đều bị xử bắn không cần xét xử, và bản án chỉ được lập sau khi họ bị hành quyết và ghi lùi ngày tháng lại. Đây là những gì đồng chí cộng sản lão thành Kedrov đã viết cho BCHTW, qua đồng chí Andreyev (lúc đó là bí thư BCHTW):
"Từ xà lim tối tăm của nhà tù Lefortovo, tôi cầu cứu các đồng chí. Nghe được tiếng thét hãi hùng, các đồng chí sẽ chẳng làm ngơ, hãy hành động, hãy giúp tôi chấm dứt cơn ác mộng của các vụ hỏi cung và chỉ ra sai lầm.
Tôi bị oan. Xin hãy tin. Thời gian sẽ chứng minh. Tôi không phải là một phần tử khiêu khích thuộc đội cận vệ Sa hoàng, không phải gián điệp, không phải thành viên của tổ chức chống phá Sô-viết, như người ta buộc tội dựa trên những đơn vu khống. Và tôi không thực hiện bất cứ một tội ác nào với đảng và tổ quốc. Tôi là một đảng viên bôn-sê-vich cựu trào trong sạch, gần bốn mươi năm liên tục trong hàng ngũ của đảng chiến đấu trung thực vì sự phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân.
... Tôi giờ đây, một ông già 62 tuổi, đang bị an ninh điều tra đe dọa dùng những biện pháp nhục hình ngày càng ác liệt, tàn bạo và nhục nhã hơn. Họ không đủ khả năng nhìn nhận sai lầm của mình và công nhận những hành vi trái pháp luật và không được phép mà họ đã áp dụng đối với tôi. Họ cố biện minh cho hành động của mình bằng cách coi tôi như một kẻ thù ngoan cố và tàn bạo, và đòi hỏi tăng cường biện pháp tra tấn. Nhưng hãy để đảng biết tôi là người vô tội và không thế lực nào có thể biến một đứa con trung thành với đảng đến hơi thở cuối cùng lại trở thành kẻ thù của đảng.
Nhưng tôi chẳng còn lối thoát. Tôi hoàn toàn bất lực trước những đòn tra tấn ngày càng mới và dữ dội hơn.
Tuy nhiên, mọi thứ đều có giới hạn. Tôi đã kiệt quệ. Sức khỏe suy sụp, năng lực cạn kiệt, đời tôi sắp tàn. Chết trong nhà tù Xô-viết với cái nhãn hiệu kẻ phản bội tổ quốc đáng khinh bỉ - thử hỏi còn gì khủng khiếp hơn với một con người trung thực. Đáng sợ làm sao! Nỗi đau và niềm cay đắng vô bờ bến bóp nghẹt tim tôi. Không, không! Không thể như thế, không được như thế, tôi phải thét lên. Đảng, chính phủ Xô-viết và ủy viên L. P. Beria không thể cho phép xảy ra bất công ác độc không thể sửa chữa như thế được!
Tôi tin chắc rằng nếu điều tra bình tĩnh, công bằng, không có những lời xỉ vả bỉ ổi, không phẫn nộ, không nhạo báng ghê tởm, tính vô căn cứ của những lời buộc tội dễ dàng xác định. Tôi tin tưởng sâu sắc là sự thật và công lí sẽ chiến thắng. Tôi tin tưởng, tin tưởng như thế".
Đảng viên bôn-sê-vich lão thành, đồng chí Kedrov đã được tòa án quân sự công nhận là vô tội. Nhưng, bất chấp điều đó, đồng chí vẫn bị xử bắn theo lệnh của Beria. (Phẫn nộ trong phòng họp.)
Beria còn thanh trừng tàn ác với gia đình đồng chí Orjonikidze. Vì sao? Vì Orjonikidze đã ngăn cản Beria thực hiện những ý đồ đê tiện của y. Beria muốn gạt bỏ tất cả những ai có thể là trở ngại trên đường của hắn. Orjonikidze luôn luôn là địch thủ của Beria và đồng chí cũng nói thẳng điều ấy với Stalin. Thay vì phải xem xét và có biện pháp cần thiết thì Stalin lại để mặc cho người em của Orjonikidze bị thủ tiêu, còn bản thân Orjonikidze lâm vào tình trạng khiến cuối cùng đồng chí phải tự vẫn. (Phẫn nộ trong phòng họp.) Beria là con người như thế đó!
Beria đã bị BCHTW vạch mặt ngay sau khi Stalin chết. Kết quả của quá trình điều tra tố tụng kĩ lưỡng đã xác định những tội ác man rợ của Beria, và y đã bị xử bắn.
Vấn đề là vì sao Beria, người đã thủ tiêu hàng vạn cán bộ của đảng và của Xô-viết, lúc sinh thời Stalin lại không bị vạch mặt? Sở dĩ Beria không bị lột mặt nạ sớm vì y biết lợi dụng rất khéo léo những điểm yếu của Stalin, khêu gợi tính đa nghi của Stalin, cúc cung tận tụy phục vụ Stalin và được Stalin ủng hộ.
Thưa các đồng chí!
Tệ sùng bái cá nhân sở dĩ đạt đến mức độ quái dị như vậy là vì chính Stalin đã luôn khuyến khích và ủng hộ sự phóng đại con người của mình. Điều này đã được vô số sự kiện chứng minh. Một trong những biểu hiện tiêu biểu nhất của sự tôn thờ bản thân và thiếu khiêm tốn một cách cơ bản của Stalin là cuốn "Tiểu sử tóm lược" ấn hành vào năm 1948.
Cuốn sách này là sự thể hiện thứ xu nịnh không kiềm chế nổi, là hình mẫu của việc thần thánh hóa con người, biến con người thành một hiền nhân không thể sai lầm, một "lãnh tụ vĩ đại nhất", một "nhà cầm quân vô song của mọi thời đại và mọi dân tộc". Chẳng còn tìm nổi từ nào khác để tâng bốc vai trò của Stalin.
Chẳng cần trích dẫn những lời xu nịnh đến buồn nôn, chồng chất lên nhau trong cuốn sách. Chỉ cần nhấn mạnh một điều là tất cả những thứ ấy đã được chính Stalin chấp thuận và biên tập, thậm chí còn tự tay bổ sung vào bản in thử cuốn sách.
Điều gì Stalin cho là mấu chốt nhất trong cuốn sách? Có lẽ, đồng chí cố gắng hạ nhiệt ngọn lửa xu nịnh của những kẻ biên soạn cuốn "Tiểu sử tóm lược" ấy? Không. Stalin đã nhấn mạnh thêm ở chính những chỗ mà những lời ca tụng công trạng của đồng chí mà đồng chí cảm thấy chưa đủ.
Vài đặc điểm về cuộc đời hoạt động của Stalin do chính tay Stalin bổ khuyết:
"Trong cuộc đấu tranh chống bọn nhu nhược và bọn đầu hàng, bọn Trotskist và Zinovyev, bọn Bukharin và Kamenev, sau khi Lenin rời chiến trường, cuối cùng đã hình thành hạt nhân lãnh đạo đảng ta..., bảo vệ ngọn cờ vĩ đại của Lenin, đoàn kết đảng chung quanh di huấn của Lenin và dẫn dắt nhân dân Liên Xô trên con đường thênh thang của công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp. Lãnh đạo hạt nhân ấy, sức mạnh dẫn dắt của đảng và nhà nước chính là đồng chí Stalin".
Chính Stalin tự tay viết những câu trên! Rồi đồng chí còn chua thêm:
"Hoàn thành nhiệm vụ của người lãnh đạo đảng và nhân dân một cách tài tình, được sự ủng hộ toàn diện của nhân dân Xô-viết; tuy nhiên, Stalin không cho phép trong hoạt động của mình một bóng mờ kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình".
Đã ở đâu và có khi nào, một nhà hoạt động lại có thể tự ca tụng mình như thế chưa? Chẳng lẽ điều ấy xứng đáng với một nhà hoạt động Mac-xit - Lê-nin-nít? Không. Chính Marx và Engels đã kiên quyết chống lại điều đó. Chính Lenin cũng luôn lên án mạnh mẽ điều đó.
Trong bản in thử cuốn sách có một câu như sau: "Stalin là Lenin của thời đại ngày nay". Câu này đối với Stalin rõ ràng còn chưa đủ, và Stalin đã tự tay sửa lại:
"Stalin - người kế tục xứng đáng sự nghiệp của Lenin, hoặc như người ta thường nói trong đảng, Stalin là Lenin của thời đại ngày nay". Nói thật là hay, nhưng không phải do nhân dân nói mà do chính Stalin.
Có thể chỉ ra vô số những lời tự tán dương mình tương tự được chính tay Stalin thêm vào trong bản in thử cuốn sách. Stalin đặc biệt hào phóng khi tự ban cho mình những lời khen ngợi về thiên tài quân sự, về tài năng cầm quân.
Xin trích dẫn thêm một đoạn do chính Stalin tự tay bổ sung về thiên tài quân sự của mình:
"Đồng chí Stalin tiếp tục phát triển khoa học quân sự Xô-viết tiên tiến. Đồng chí Stalin đã soạn thảo định lí về những yếu tố thường xuyên quyết định vận mệnh chiến tranh, về sự phòng thủ tích cực và các quy luật phản công và tấn công, về sự phối hợp giữa các binh chủng và kĩ thuật quân sự trong điều kiện chiến tranh hiện đại, về vai trò của binh đoàn chiến xa và phi cơ trong chiến tranh hiện đại, về pháo binh, binh chủng hùng mạnh nhất của quân đội. Trong mỗi giai đoạn chiến tranh khác nhau, thiên tài Stalin luôn tìm ra những giải pháp đúng đắn, hoàn toàn căn cứ trên đặc điểm của tình hình. (Xôn xao trong phòng họp.)
Chính Stalin viết tiếp:
"Nghệ thuật cầm quân của Stalin được thể hiện trong phòng thủ cũng như trong tấn công. Với sự sáng suốt thiên tài, đồng chí Stalin đã đoán biết kế hoạch của địch và đánh bại chúng. Những trận giao tranh do đồng chí Stalin chỉ huy quân đội Liên Xô là những hình mẫu xuất chúng của nghệ thuật quân sự".
Stalin tự tâng bốc bản thân như một lãnh tụ quân sự. Nhưng ai đã làm tất cả những việc này? Chính Stalin, nhưng không phải trên cương vị một nguyên soái, mà trong vai một tác giả kiêm biên tập, một trong những tác giả chính của cuốn tiểu sử tràn ngập những lời ca tụng bản thân.
Thưa các đồng chí, sự thật là như thế. Phải nói thẳng là sự thật đáng hổ thẹn.
Và còn thêm một sự kiện nữa từ cuốn "Tiểu sử tóm lược" này. Được biết, cuốn "Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (bôn-sê-vích) Liên Xô" được một ủy ban thuộc BCHTW soạn thảo ra. Nhân tiện xin bổ sung công trình thấm đẫm sùng bái cá nhân này do một nhóm tác giả được lựa chọn để biên soạn. Và câu này đã được thể hiện trong bản in thử cuốn " Tiểu sử tóm lược" bằng cách diễn đạt sau:
"Một ủy ban thuộc BCHTW ĐCSLX, dưới sự chỉ đạo và và tham gia tích cực nhất của cá nhân đồng chí Stalin đã soạn thảo cuốn "Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (bôn-sê-vich) Liên Xô".
Tuy vậy, cách diễn đạt này vẫn chưa làm Stalin thỏa mãn, và trong "Tiểu sử tóm lược" nó được thay bằng câu sau:
"Năm 1938, cuốn "Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (bôn-sê-vich) Liên Xô" được ấn hành, do đồng chí Stalin biên soạn và được ủy ban đặc biệt BCHTW ĐCSLX thông qua". Thử hỏi còn có thể nói gì thêm nữa! (Xôn xao trong phòng họp)
Như các đồng chí thấy, một biến đổi ngoạn mục khiến một công trình do tập thể biên soạn trở thành cuốn sách do Stalin viết. Thiết tưởng không cần phải nói biến đổi này đã diễn ra như thế nào và tại sao.
Xuất hiện một câu hỏi mang tính quy luật: nếu quả thực Stalin là tác giả cuốn sách đó, cần gì đồng chí phải tán tụng cá nhân Stalin, và về bản chất, tại sao phải biến đổi toàn bộ giai đoạn lịch sử sau cách mạng tháng Mười của đảng cộng sản quang vinh quang thành bối cảnh sự nghiệp của "thiên tài Stalin"?
Chẳng lẽ có thể tìm thấy trong sách này sự phản ánh chân thực những nỗ lực của đảng ta trong công cuộc biến đổi xã hội, xây dựng xã hội chủ nghĩa, công nhiệp hóa và tập thể hóa đất nước, cũng như những biện pháp khác do đảng thực hiện theo đúng con đường Lenin đã vạch ra? Ở đó chủ yếu chỉ nói về Stalin, về những bài diễn văn, về những bản báo cáo của đồng chí. Tất cả, không một chút ngoại lệ, đều gắn liền với tên tuổi Stalin.
Và khi chính Stalin tuyên bố mình đã viết cuốn "Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (bôn-sê-vich) Liên Xô", thì điều này không thể không dấy lên sự ngạc nhiên và ngờ vực. Chẳng lẽ một người Mac-xit - Lê-nin-nit lại viết về mình như thế, đưa sự sùng bái cá nhân mình lên đến tận mây xanh?
Hoặc hãy xem vấn đề giải thưởng Stalin. (Xôn xao trong phòng họp.) Ngay cả các Sa hoàng cũng chưa từng lấy tên mình để đặt cho các giải thưởng như vậy.
Chính Stalin đã công nhận lời hay nhất của quốc ca Liên Xô, trong đó không một từ về đảng Cộng sản, nhưng có một đoạn ca ngợi Stalin không gì so sánh nổi như sau: "Stalin bồi dưỡng cho chúng ta lòng trung thành với nhân dân,/ Động viên chúng ta trong lao động và vinh quang".
Trong những dòng này của bản quốc ca, toàn bộ hoạt động giáo dục, lãnh đạo, động viên của đảng Lê-nin-nit đều ca tụng Stalin. Tất nhiên, điều này rõ ràng lệch lạc với học thuyết Marx-Lenin, coi thường và hạ thấp vai trò của đảng. Xin thông báo với các đồng chí là Đoàn chủ tịch BCHTW đã thông qua nghị quyết về việc soạn lại lời mới cho quốc ca, phản ánh vai trò của nhân dân, vai trò của đảng. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Chẳng lẽ Stalin không được báo cáo việc tên của đồng chí đã được đặt cho nhiều xí nghiệp và thành phố lớn, chẳng lẽ Stalin không được báo cáo việc trên khắp đất nước tượng đài Stalin được xây dựng- "đài tưởng niệm cho người sống"? Một sự kiện có thật là chính Stalin vào ngày 2-7-1951 đã kí nghị quyết định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô về việc xây bức tượng Stalin bên kênh đào Volga-Don, còn ngày 4-9 cùng năm, đã ra chỉ thị dùng 33 tấn đồng để đúc bức tượng kì vĩ đó. Ai có dịp đến thăm vùng Stalingrad, chắc chắn đều thấy bức tượng khổng lồ vươn lên, dù nó được xây ở một nơi ít người qua lại. Và để xây dựng tượng đài này phải tốn không biết bao nhiêu của cải, thời gian, trong khi dân ta quanh vùng đó sau thời chiến tranh còn phải sống trong những ngôi nhà đất. Các đồng chí hãy ngẫm xem, điều Stalin viết trong tiểu sử của mình có đúng hay không: "trong cuộc đời hoạt động của mình đồng chí không cho phép dù chỉ một bóng mờ của kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình"?
Đồng thời, Stalin đã thể hiện sự thiếu kính trọng với kỉ niệm về Lenin. Không phải tình cờ, mặc dầu quyết định về việc xây dựng Cung Xô-viết để tưởng niệm Vladimir Ilich đã được thông qua cách đây 30 năm, công trình vẫn chưa được xây dựng, và vấn đề ấy liên tục bị trì hoãn và chìm vào quên lãng. Cần phải sửa chữa việc này và phải khởi công công trình tưởng niệm Vladimir Ilich Lenin. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Không thể không nhắc đến quyết định của chính phủ Xô-viết ngày 14-8-1925 "Về việc trao giải thưởng Lenin cho công tác khoa học". Nghị quyết ấy được đăng tải trên báo chí, nhưng đến nay vẫn chưa hề có chuyện trao tặng giải thưởng Lenin. Việc này cũng cần phải sửa chữa. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Sinh thời Stalin, nhờ những phương pháp mà tôi từng nhắc đến, chẳng hạn các sự kiện được viết trong cuốn "Stalin - tiểu sử tóm lược", mọi biến cố đều được diễn giải như thể Lenin chỉ đóng vai trò thứ yếu, thậm chí trong việc hoàn thành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười. Trong nhiều phim ảnh và tác phẩm văn học, hình tượng Lenin được miêu tả một cách sai lệch và bị hạ thấp một cách không thể chấp nhận được.
Stalin rất yêu thích bộ phim "Năm 1919 bất diệt", trong đó đồng chí được thể hiện đứng trên bậc tàu hỏa và gần như đánh tan quân thù bằng thanh kiếm của mình. Hãy để Kliment Efremovich, người bạn quý mến của chúng ta, lấy hết can đảm và viết lên sự thật về Stalin, chính đồng chí biết Stalin đã chiến đấu như thế nào. Còn đồng chí Voroshilov sẽ khó khăn hơn để bắt đầu công việc ấy, nhưng tốt biết mấy nếu đồng chí vẫn cứ làm. Điều đó sẽ được cả nhân dân và đảng đều hoan nghênh. Và thế hệ con cháu sẽ biết ơn vì điều đó. (Vỗ tay kéo dài.)
Trong việc diễn giải những sự kiện liên quan đến cách mạng tháng Mười và nội chiến, trong nhiều trường hợp sự việc được mô tả khiến ta có cảm tưởng vai trò chính yếu thuộc về Stalin ở khắp mọi nơi, bất kể lúc nào và ở đâu, Stalin là người tham mưu cho Lenin phải làm gì và làm như thế nào. Thật là một sự lăng mạ đối với Lenin. (Vỗ tay kéo dài.)
Có lẽ, sẽ không phải ngoa ngôn, nếu tôi nói là 99% các đồng chí có mặt ở đây hầu như ít được biết và ít nghe nói đến Stalin trước năm 1924, nhưng mọi người trong nước đều biết Lenin; toàn đảng, toàn dân, dù ít hay nhiều. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Cần phải quyết tâm nhìn lại vấn đề tìm thấy sự phản ánh đúng đắn trong lịch sử, trong văn học, trong nghệ thuật vai trò của Lenin và sự nghiệp vĩ đại của đảng ta và của nhân dân Xô-viết, một dân tộc sáng tạo, một dân tộc kiến tạo. (Vỗ tay.)
Thưa các đồng chí! Tệ sùng bái cá nhân đã dẫn đến áp dụng rộng rãi những phương pháp sai lầm trong công tác xây dựng đảng và hoạt động kinh tế, dẫn đến vi phạm thô bạo dân chủ trong nội bộ đảng và Xô-viết, cưỡng chế bằng biện pháp hành chính, phát sinh những lệch lạc đủ loại: che giấu thiếu sót, tô hồng thực tế. Đầy rẫy những kẻ nịnh hót, a dua, chuyên nghề lừa phỉnh và đánh lạc hướng xuất hiện trong chúng ta.
Không thể không thấy do hậu quả của sự bắt giam vô số cán bộ đảng, nhà nước và tổ chức kinh tế, nhiều đảng viên trở nên thiếu tự tin trong công việc, nhìn trước ngó sau, sợ đổi mới, sợ ngay cả cái bóng của mình và thiếu hẳn sáng tạo trong công tác.
Hãy xem những nghị quyết của các cơ quan đảng và nhà nước. Chúng được soạn thảo theo khuôn mẫu nhất định, nhiều khi hoàn toàn không đếm xỉa gì đến tình hình cụ thể. Đến mức, phát biểu của các cán bộ trong đảng hay ngoài đảng, thậm chí trong những hội nghị, hội thảo nhỏ, về một chủ đề bất kì, cũng là đọc những bài diễn văn viết sẵn. Tất cả những điều này dẫn đến hiểm họa cho công tác đảng và nhà nước trở nên hình thức, bộ máy tổ chức trở nên quan liêu.
Sự thiếu hiểu biết tình hình thực tế công việc và tách rời cuộc sống của Stalin có thể thấy rõ trong cách thức đồng chí lãnh đạo ngành nông nghiệp.
Bất kì ai chỉ cần một chút quan tâm về tình hình đất nước, đều thấy hiện trạng khó khăn của nền nông nghiệp, nhưng Stalin chẳng bao giờ để tâm đến chuyện này. Chúng ta có báo cáo Stalin về vấn đề này không? Có, chúng ta có nói, nhưng không được ủng hộ. Vì sao? Bởi vì Stalin chẳng bao giờ chịu đi thực tế các nơi, chẳng bao giờ gặp gỡ công nhân và nông trang viên cho nên chẳng thể nào nắm được tình hình ở nông thôn.
Stalin chỉ nghiên cứu đất nước và nông nghiệp qua phim ảnh. Tuy nhiên, những bộ phim chỉ tô hồng, đánh bóng thực trạng nền nông nghiệp. Đời sống nông trang tập thể trong những bộ phim được mô tả qua hình ảnh bàn ăn kêu cót két như muốn sụm vì chất đầy thịt gà, thịt ngỗng. Hẳn Stalin nghĩ rằng điều này là có thật, và nó phải như vậy.
Vladimir Ilich Lenin quan sát thực tế đời sống hoàn toàn khác, người luôn gần gũi gắn bó với nhân dân, đón tiếp các phái đoàn nông dân, thường xuyên phát biểu tại các công xưởng và nhà máy, đi thăm nông thôn, chuyện trò với nông dân.
Stalin xa rời nhân dân và chẳng đi thăm viếng nơi nào. Sự việc này kéo dài hàng chục năm. Chuyến viếng thăm nông thôn cuối cùng của Stalin là vào tháng 1-1928, khi đồng chí đi thăm Siberia về vấn đề ngũ cốc. Thử hỏi làm sao Stalin có thể nắm được tình hình ở nông thôn?
Trong một cuộc nói chuyện, Stalin được báo cáo về tình hình khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất thịt và các sản phẩm khác của ngành chăn nuôi trong nước rất yếu kém. Một ủy ban được thành lập với nhiệm vụ là chuẩn bị một dự thảo nghị quyết "Về những biện pháp phát triển tiếp theo ngành chăn nuôi ở các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh".
Chúng tôi đã biên soạn dự thảo đó.
Tất nhiên, những đề xuất của chúng tôi thời ấy không đề cập đến tất cả mọi khả năng, nhưng những phương hướng nhằm nâng cao mức chăn nuôi gia súc cũng được vạch ra. Khi đó đề xuất tăng giá các sản phẩm chế biến từ thịt được kiến nghị để nâng cao lợi ích vật chất của nông trang viên, công nhân trạm máy kéo và người lao động tại nông trường quốc doanh trong việc phát triển chăn nuôi. Nhưng dự thảo của chúng tôi không được thông qua và bị xếp xó vào hồi tháng 2-1953.
Ngoài ra, khi xem xét dự thảo này, Stalin còn đề nghị tăng thuế của các nông trang tập thể và các nông trang viên lên 40 tỉ rúp, bởi vì, theo ý kiến của đồng chí, tầng lớp nông dân còn sống quá thoải mái và mỗi nông trang viên chỉ cần bán đi một con gà là thừa tiền đóng thuế nhà nước.
Các đồng chí thử nghĩ như thế là sao? Bốn mươi tỉ rúp - số tiền như thế thì các nông dân có bán tất tần tật sản phẩm của mình đi cũng chẳng đào đâu ra được. Vào năm 1952 chẳng hạn, các nông trang tập thể và nông trang viên chỉ thu được 26 tỉ 280 triệu rúp sau khi đã cung cấp và bán toàn bộ sản phẩm cho nhà nước.
Thử hỏi đề nghị này của Stalin dựa trên những số liệu cụ thể nào? Tất nhiên là không. Stalin không hề quan tâm đến những sự kiện và những con số. Một khi Stalin đã nói điều gì, điều đó phải là như thế, bởi lẽ Stalin là bậc "thiên tài" và một thiên tài thì không cần tính toán, chỉ cần liếc mắt là đủ có thể xác định cần phải như thế nào. Stalin nói một lời nào, thì sau đó ai nấy đều phải lặp lại y hệt và phải tâng bốc sự sáng suốt của đồng chí.
Nhưng sự sáng suốt nào thể hiện trong việc đề xuất tăng thuế nông nghiệp lên 40 tỉ rúp? Chẳng có một chút tính toán nào cả, bởi vì đề xuất ấy không phải xuất phát từ đánh giá hiện trạng thực tế mà chỉ là ý nghĩ viển vông của một con người xa rời cuộc sống.
Hiện nay, chúng ta đang dần dần thoát khỏi tình trạng khó khăn trong nông nghiệp. Tham luận của các đại biểu đại hội lần thứ XX này khiến mỗi người trong chúng ta đều phấn khởi, khi có nhiều đại biểu phát biểu là chúng ta đã có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ của kế hoạch năm năm lần thứ sáu ngành chăn nuôi gia súc không phải trong 5 năm mà chỉ từ hai đến ba năm. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của kế hoạch năm năm kế tiếp. (Vỗ tay kéo dài.)
Thưa các đồng chí!
Giờ đây, khi chúng ta phê phán mạnh mẽ tệ sùng bái cá nhân, lan tràn khắp mọi nơi hồi sinh thời Stalin, và vạch trần nhiều hiện tượng tiêu cực phát sinh từ tệ sùng bái cá nhân, vốn xa lạ với tinh thần học thuyết Marx-Lenin, một vài người riêng lẻ có thể đặt câu hỏi: sao lại như thế, Stalin đã lãnh đạo đảng và đất nước trong suốt ba mươi năm đạt được nhiều thắng lợi to lớn, chẳng lẽ lại có thể phủ nhận điều đó? Tôi cho rằng chỉ những người mù quáng trước tệ sùng bái cá nhân và bị nó thôi miên đến mức vô phương cứu chữa, chỉ những người không hiểu bản chất của cách mạng và nhà nước Xô-viết, không nắm bắt được vai trò của đảng và của nhân dân theo quan điểm Lê-nin-nit trong quá trình phát triển xã hội Sô-viết, mới đặt câu hỏi như thế.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là do liên minh công nông, với sự ủng hộ của một bộ phận trung nông, do nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng bôn-sê-vich thực hiện. Công lao vĩ đại của Lenin là ở chỗ đồng chí đã thành lập một đảng tiên phong của giai cấp công nhân, trang bị cho đảng việc nắm vững các quy luật phát triển xã hội theo quan điểm Mác-xít và học thuyết về thắng lợi của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đồng chí đã tôi luyện đảng trong ngọn lửa đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Trong cuộc đấu tranh này, đảng đã từng bước bảo vệ quyền lợi của nhân dân, đã trở thành người lãnh đạo giàu kinh nghiệm đưa quần chúng lao động giành chính quyền, thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Các đồng chí hẳn còn nhớ rõ nhận định sáng suốt của Lenin: sự giác ngộ của quần chúng nhân dân chính là sức mạnh của nhà nước Sô-viết, lịch sử là do hàng triệu, hàng chục triệu con người sáng tạo nên.
Chúng ta đã đạt được những chiến thắng lịch sử nhờ công tác tổ chức đảng, của nhiều tổ chức địa phương và sự lao động quên mình của nhân dân vĩ đại. Những thắng lợi ấy là kết quả của hoạt động lớn lao của một khối thống nhất nhân dân và đảng, và tuyệt nhiên không phải là thành quả của sự lãnh đạo của một cá nhân Stalin như người ta từng khẳng định trong thời kì thăng hoa của sùng bái cá nhân.
Nếu tiếp cận vấn đề này theo phương pháp của học thuyết Marx-Lenin, phải tuyên bố một cách thẳng thắn không úp mở là thực tế việc lãnh đạo trong những năm cuối đời của Stalin đã thành một trở ngại nghiêm trọng trên con đường phát triển của xã hội Sô-viết.
Stalin thường trì hoãn nhiều tháng trời không xem xét những vấn đề vô cùng quan trọng cần phải giải quyết kịp thời, liên quan đến sinh hoạt đảng và nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Stalin, quan hệ hòa bình giữa ta với các quốc gia khác lắm lúc bị đe dọa bởi quyết định của một cá nhân và đôi khi khiến cho tình hình trở nên phức tạp.
Trong những năm gần đây, khi chúng ta thoát khỏi thực tế tai hại của tệ sùng bái cá nhân và áp dụng nhiều biện pháp thích hợp trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại, mọi người đều có thể thấy rất rõ, tính chủ động và ý tưởng sáng tạo của đông đảo quần chúng lao động tăng tiến và phát triển vượt bậc, điều này đã bắt đầu ảnh hưởng tốt đến kết quả của công cuộc xây dựng kinh tế và văn hóa. (Vỗ tay.)
Một số đồng chí có thể đặt câu hỏi: lúc đó các ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ở đâu? sao các đồng chí không kịp thời phản đối tệ sùng bái cá nhân mà đến tận bây giờ mới lên tiếng?
Trước hết, cần phải lưu ý, các ủy viên Bộ Chính trị nhìn nhận vấn đề này một cách khác nhau trong các thời kì khác nhau. Thời kì đầu, nhiều người trong số họ tích cực ủng hộ Stalin vì Stalin là một trong những nhà Mac-xit mạnh mẽ nhất và lí luận, sức mạnh và ý chí của đồng chí có ảnh hưởng lớn đến đội ngũ cán bộ đảng và công tác đảng.
Như đã biết, sau khi Lenin mất, đặc biệt vào thời kì đầu, Stalin đã đấu tranh tích cực bảo vệ học thuyết Lenin, chống lại kẻ thù và những người rời bỏ học thuyết này. Xuất phát từ chủ nghĩa Lenin, đảng ta - đứng đầu là BCHTW - đã triển khai nhiệm vụ to lớn nhằm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đất nước, tập thể hóa nông nghiệp và tiến hành cách mạng văn hóa. Thời đó, Stalin rất được lòng dân, giành được thiện cảm và ủng hộ. Đảng đã phải đấu tranh chống những thế lực muốn đưa đất nước khỏi đường lối Lê-nin-nit duy nhất đúng đắn, chống bè lũ Trotskit, Zinovyev, hữu khuynh và tư sản quốc gia. Cuộc đấu tranh này là cần thiết. Nhưng về sau, Stalin ngày càng lạm dụng quyền lực, mở cuộc tấn công những nhà hoạt động uy tín của đảng và nhà nước, áp dụng các biện pháp khủng bố chống lại những con người Sô-viết trung thực. Như đã đề cập, Stalin đã áp dụng những biện pháp như thế với những nhà hoạt động xuất sắc của đảng và nhà nước, như các đồng chí Kosior, Rudzutak, Eikhe, Postyshev và nhiều người khác.
Những người có ý định phản đối những nghi ngờ và buộc tội vô căn cứ đều bị đàn áp. Vụ việc của đồng chí Postyshev là một trường hợp điển hình.
Trong một buổi nói chuyện, Stalin tỏ vẻ không hài lòng với Postyshev và đặt câu hỏi:
- Thật ra anh là ai?
Postyshev cứng rắn tuyên bố với giọng nói đặc sệt miền Volga của đồng chí:
- Là người bôn-sê-vich, thưa đồng chí Stalin, tôi là người bôn-sê-vich!
Lời tuyên bố này thoạt đầu được đánh giá là thiếu lễ độ với Stalin, sau đó trở thành hành động phá hoại và cuối cùng dẫn đến việc thủ tiêu Postyshev, bị cáo buộc một cách hoàn toàn vô căn cứ là "kẻ thù của nhân dân".
Hồi ấy, tôi thường trao đổi về tình hình thực tế với Nikolai Alexandrovich Bulganin. Một lần, khi chúng tôi đi cùng xe, đồng chí bảo tôi:
- Đôi lúc, có ai đó được Stalin mời đến gặp như một người bạn. Nhưng khi ngồi ở chỗ Stalin, anh ta không biết sau đó mình sẽ đi đâu: trở về nhà hay vào tù.
Rõ ràng, hoàn cảnh như vậy đã đặt các ủy viên Bộ Chính trị vào một tình thế hết sức khó khăn. Nếu xét đến việc trong những năm gần đây, hội nghị toàn thể BCHTW thực tế không hề được triệu tập và những kì họp của Bộ Chính trị cũng chỉ thỉnh thoảng mới được tiến hành, có thể hiểu được rất khó khăn cho một ủy viên Bộ Chính trị lên tiếng chỉ trích một biện pháp bất công hay sai trái nào đó, hoặc chống lại những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng trong công tác lãnh đạo.
Như đã nhắc đến, nhiều quyết định chỉ do một cá nhân định đoạt, hoặc chỉ được lấy ý kiến mà không thông qua thảo luận tập thể.
Mọi người đều biết số phận bi thảm của đồng chí Voznesensky, ủy viên Bộ Chính trị, nạn nhân của sự đàn áp Stalin. Điển hình là việc đưa Voznesensky ra khỏi Bộ Chính trị đã không hề thông qua một cuộc thảo luận nào cả mà chỉ được tiến hành lấy ý kiến. Quyết định miễn nhiệm các đồng chí Kuznetsov và Rodionov cũng được thực hiện theo lối ấy.
Vai trò của Bộ Chính trị BCHTW bị thu hẹp đáng kể và công việc của cơ quan này bị xáo trộn vì việc thành lập ngay trong Bộ Chính trị đủ thứ tiểu ban, với những tên gọi như "tiểu ban năm người", "tiểu ban sáu người", "tiểu ban bảy người", "tiểu ban chín người". Chẳng hạn, nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 3-10-1946:
"Đề nghị của đồng chí Stalin: 1. Giao cho Tiểu ban đối ngoại thuộc Bộ Chính trị (tiểu ban sáu người), ngoài những vấn đề chính trị đối ngoại, sẽ chịu trách nhiệm về những vấn đề xây dựng nội bộ và chính trị đối nội. 2. Bổ sung vào thành phần "tiểu ban sáu người" đồng chí Voznesensky, chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước, để thành "tiểu ban bảy người". Bí thư BCHTW - Stalin".
Theo thuật ngữ cờ bạc thì phải hiểu thế nào? (Cười lớn trong phòng họp.) Rõ ràng, việc thành lập những ủy ban loại này trong Bộ Chính trị - "tiểu ban năm người", "tiểu ban sáu người", "tiểu ban bảy người", "tiểu ban chín người" trái với nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Hậu quả là, một số ủy viên Bộ Chính trị bị loại khỏi các việc quyết định những vấn đề quan trọng nhất.
Một trong những đảng viên kì cựu nhất của đảng, đồng chí Kliment EfremovichVoroshilov, đã từng lâm vào hoàn cảnh không thể chịu đựng nổi. Trong nhiều năm ròng, đồng chí thực sự bị tước quyền tham gia vào công việc của Bộ Chính trị. Xtalin đã cấm đồng chí dự các buổi họp của Bộ Chính trị và không gửi cho đồng chí các văn kiện hội nghị. Cứ mỗi lần biết Bộ Chính trị triệu tập họp, Voroshilov lại gọi điện cho Stalin hỏi xem mình có được phép tham dự phiên họp hay không. Đôi khi Stalin cho phép, nhưng luôn luôn tỏ ra không vừa ý. Do bản tính hay tưởng tượng và nghi ngờ quá đỗi, Stalin còn có nghi ngờ phi lí và nực cười rằng Voroshilov là gián điệp của Anh. (Cười lớn trong phòng họp.) Thật thế, gián điệp Anh quốc! Người ta đã đặt ở nhà đồng chí một thiết bị đặc biệt để nghe lén tất cả các cuộc nói chuyện. (Phẫn nộ trong phòng họp.)
Stalin còn độc đoán trong việc loại một ủy viên Bộ Chính trị khác ra khỏi công tác của Bộ Chính trị, đó là Andrei Andreyevich Andreev.
Đó là biểu hiện quá đà nhất của sự chuyên quyền.
Ta còn nhớ tại hội nghị toàn thể BCHTW đầu tiên sau đại hội đảng lần thứ XIX, trong bài phát biểu của mình, Stalin đã nêu tính cách của Vyacheslav Mikhailovich Molotov và Anatas Ivanovich Mikoyan, và tỏ ý buộc tội hoàn toàn vô căn cứ hai nhà hoạt động kì cựu của đảng ta.
Không loại trừ khả năng nếu như Stalin còn ở cương vị lãnh đạo thêm vài tháng nữa, có lẽ các đồng chí Molotov và Mikoyanan không còn cơ hội đọc tham luận tại đại hội kì này.
Rõ ràng, Stalin đã có kế hoạch thanh trừng tất cả các cựu ủy viên Bộ Chính trị. Stalin nhiều lần tuyên bố cần thay thế các ủy viên Bộ Chính trị. Đề nghị của Stalin sau đại hội lần thứ XIX về việc bầu chọn Đoàn chủ tịch của BCHTW gồm 25 người nhằm mục đích loại bỏ những cựu ủy viên Bộ Chính trị và thay vào bằng những người ít kinh nghiệm hơn, để họ sẵn sàng tung hô Stalin. Thậm chí có thể giả thiết rằng mọi việc còn được sắp đặt để thủ tiêu các cựu ủy viên Bộ Chính trị sau đó, và giấu nhẹm những hành vi đáng hổ thẹn của Stalin mà hôm nay chúng ta báo cáo ở đây.
Thưa các đồng chí! Để không lặp lại những sai lầm của quá khứ, BCHTW kiên quyết bày tỏ lập trường chống tệ sùng bái cá nhân. Chúng ta nhận thấy Stalin đã được tán dương một cách thái quá. Không thể chối cãi, trong quá khứ Stalin đã có công trạng lớn đối với đảng, với giai cấp công nhân và phong trào công nhân quốc tế.
Vấn đề trở nên phức tạp ở chỗ, tất cả những điều chúng ta vừa nêu trên đây đã xảy ra lúc sinh thời Stalin, dưới sự lãnh đạo và đồng ý của đồng chí, Stalin tin chắc điều đó là cần thiết cho việc bảo vệ quyền lợi của giai cấp lao động trước những âm mưu của kẻ thù và sự tấn công của phe đế quốc. Stalin xem xét toàn bộ sự việc trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, quyền lợi của nhân dân lao động và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Không thể nói đó là hành động của một kẻ điên cuồng. Đồng chí cho rằng cần thiết phải làm như thế vì quyền lợi của đảng, của quần chúng lao động, để bảo vệ những thành quả cách mạng. Bi kịch thật sự là ở chỗ đó!
Thưa các đồng chí! Lenin đã nhiều lần nhấn mạnh: khiêm tốn là đức tính không thể thiếu được của một người bôn-sê-vich chân chính. Bản thân Lenin là biểu tượng của đức khiêm tốn ở mức cao nhất. Không thể nói là trong mọi phương diện, chúng ta đã noi theo tấm gương của Lenin. Có thể nói nhiều thành phố, công xưởng và nhà máy, nông trang tập thể và nông trường quốc doanh, các cơ quan Sô-viết, các tổ chức văn hóa dường như, nếu có thể diễn đạt như vậy, là sở hữu cá nhân, mang tên các lãnh tụ đảng và nhà nước, mặc dù họ vẫn hoàn toàn khỏe mạnh và đang công tác tốt. Nhiều người trong số chúng ta đã để người ta lấy tên mình đặt cho các thành phố, các quận huyện, các xí nghiệp và nông trang tập thể. Cần chấn chỉnh lại điều này. (Vỗ tay.)
Nhưng chúng ta phải làm việc này với suy nghĩ thấu đáo và không được nóng vội. BCHTW sẽ thảo luận và điều tra kĩ càng vấn đề này để tránh mọi sai lầm và quá khích. Tôi còn nhớ trước kia tại Ukraina chúng tôi biết tin Kosior bị bắt bằng cách nào. Đài phát thanh Kiev thường mở đầu chương trình bằng như sau: "Đây là đài tiếng nói mang tên Kosior". Bỗng một ngày, chương trình bắt đầu, nhưng cái tên Kosior không được nhắc tới. Và mọi người đều đoán ra rằng đã có chuyện với Kosior, chắc là đã bị bắt giam.
Vì thế, nếu chúng ta bắt đầu gỡ bỏ các biển tên, tiến hành đổi tên ở khắp nơi, thì mọi người có thể nghĩ rằng đã có chuyện xảy ra với những đồng chí có tên được đặt cho những xí nghiệp, những nông trang hay những thành phố, có lẽ, họ đã bị bắt giam cũng nên. (Xôn xao trong phòng họp.)
Ở chúng ta hiện nay, thước đo về uy tín và và tầm quan trọng của lãnh đạo này hay lãnh đạo khác dựa trên cơ sở nào? Dựa trên số lượng các thành phố, các nhà máy và công xưởng, các nông trang tập thể và nông trang quốc doanh được mang tên họ. Phải chăng đã đến lúc cần chấm dứt với "sở hữu cá nhân" đó và tiến hành "quốc hữu hóa" lại các công xưởng và nhà máy, các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. (Cười lớn, vỗ tay. Hoan hô "Đúng lắm!"). Điều này chỉ có lợi cho sự nghiệp của chúng ta. Tệ sùng bái cá nhân cũng biểu hiện trong những hình thức như thế.
Chúng ta phải có thái độ hết sức nghiêm túc đối với vấn đề sùng bái cá nhân. Chúng ta không để vấn đề này lọt ra ngoài phạm vi đảng, nhất là không để báo giới biết tin này. Đó là lí do chúng ta báo cáo trong phiên họp kín của đại hội. Việc gì cũng có giới hạn của nó, không được nối giáo cho giặc, không được vạch áo cho người xem lưng. Tôi tin rằng các đại biểu đại hội sẽ thấu hiểu và đánh giá đúng đắn những đề nghị của tôi. (Vỗ tay vang dội.)
Thưa các đồng chí! Chúng ta cần kiên quyết, một lần và vĩnh viễn, xóa bỏ tệ sùng bái cá nhân, rút ra những kết luận đúng đắn trong lĩnh vực lí luận tư tưởng cũng như trong thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu, chúng ta cần:
Một là, phải bàn bạc theo tinh thần bôn-sê-vich và loại trừ tận gốc rễ tệ sùng bái cá nhân xa lạ với học thuyết Marx-Lenin và không phù hợp với những nguyên tắc lãnh đạo đảng và những quy tắc sinh hoạt đảng, phải đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi mưu toan nhằm khôi phục tệ nạn đó dưới hình thức này hay hình thức khác.
Phải khôi phục và tiến hành, trong toàn bộ công tác tư tưởng của đảng ta, những nguyên lí quan trọng nhất của học thuyết Marx-Lenin về nhân dân, như là người sáng tạo lịch sử, sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại, về vai trò quyết định của đảng Mac-xit trong đấu tranh cách mạng để cải tạo xã hội, vì thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Vì lẽ đó, chúng ta buộc phải tiến hành một công việc to lớn - dưới ánh sáng học thuyết Marx-Lenin - xem xét phê bình và uốn nắn những quan điểm lệch lạc liên quan đến vấn đề sùng bái cá nhân, rất thịnh hành trong lĩnh vực lịch sử, triết học, kinh tế và các ngành khoa học khác, cũng như trong văn học và nghệ thuật. Nói riêng, trong giai đoạn sắp tới, chúng ta phải tiến hành việc soạn thảo sách giáo khoa về lịch sử đảng ta, đúng đắn, mang tính khách quan của chủ nghĩa Mac-xit khoa học, sách giáo khoa về lịch sử xã hội Sô-viết và những sách về lịch sử nội chiến và chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Hai là, phải tiếp tục công việc do BCHTW tiến hành trong những năm gần đây một cách thường xuyên và kiên trì về việc triệt để tuân thủ những nguyên tắc Lê-nin-nit về lãnh đạo đảng trong tất cả các cơ sở đảng, từ trên xuống dưới, trước tiên là nguyên tắc lãnh đạo tập thể tối cao, tuân thủ những quy tắc sinh hoạt đảng được quy định trong điều lệ đảng ta, triển khai mở rộng phê và tự phê.
Ba là, phải khôi phục lại toàn bộ những nguyên tắc Lê-nin-nit của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Xô-viết, được thể hiện trong Hiến pháp Liên Xô, phải đấu tranh chống lại sự chuyên quyền của những cá nhân lạm dụng quyền lực. Cần thiết phải chấn chỉnh đến cùng sự vi phạm pháp chế cách mạng xã hội chủ nghĩa, tồn tại trong một thời kì dài như hậu quả tiêu cực do tệ sùng bái cá nhân gây ra.
Thưa các đồng chí!
Đại hội lần thứ XX của ĐCSLX, với một sinh lực mới, đã biểu dương sự thống nhất không gì phá vỡ nổi của đảng ta, sự đoàn kết xung quanh BCHTW, sự quyết tâm thực hiện nhiệm vụ vĩ đại xây dựng chủ nghĩa cộng sản. (Vỗ tay vang dội.) Và chính sự kiện giờ đây chúng ta nêu ra những vấn đề mang tính nguyên tắc trên mọi phương diện về việc khắc phục tệ sùng bái cá nhân, vốn xa lạ với học thuyết Marx-Lenin, cũng như vấn đề giải quyết những hậu quả nghiêm trọng do nó gây ra, đã nói lên sức mạnh đạo lí và chính trị vĩ đại của đảng ta. (Vỗ tay kéo dài.)
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới ánh sáng những nghị quyết lịch sử của đại hội lần thứ XX, đảng ta sẽ đưa nhân dân Sô-viết tiến đến những thành công mới, tiến đến những thắng lợi mới, theo con đường Lenin đã vạch ra. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Ngọn cờ bách chiến bách thắng của đảng ta, chủ nghĩa Lenin muôn năm! (Vỗ tay vang dội và kéo dài, chuyển sang hoan hô nhiệt liệt. Mọi người đứng dậy.)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét