Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

Nabokov Vladimir

Hoa gia với tử đinh hương ngào ngạt
Hoa gia với tử đinh hương ngào ngạt
Mảnh liềm trăng lấp lánh dát vàng
Hoàng hôn mùa xuân nhẹ gót
Nhòa dần trong bóng tối khẽ khàng
Tôi trở về đây hồn trẻ lại
Quá khứ nào hằn vết trên tôi
Đêm huyền diệu ôi làm sao quên được
Lạc vào từng lối nhỏ lững lờ trôi
Trong dư ảnh lờ mờ như quyến rũ
Phảng phất em như chùn bước chơi vơi
Em - ảo ảnh tháng Năm phương Bắc
Em - mối tình thơ dại nhất trong đời
Chừng mê đắm trong giấc mơ kỉ niệm
Tôi buông lơi giữa thinh lặng bàng hoàng
Hoa gia với tử đinh hương ngào ngạt
Mảnh liềm trăng lấp lánh dát vàng
27-12-1918
Как пахнет липой и сиренью
Как пахнет липой и сиренью,
как золотеет серп луны!
Неторопливо, тень за тенью,
подходят сумерки весны.
Я возвращаюсь, молодею,
мне прошлого не превозмочь!
Вплывает в узкую аллею
незабываемая ночь.
И в полутьме - то завлекая,
то отступая, веешь вновь
ты - призрак северного мая,
ты - отроческая любовь!
И памятному сновиденью
я предаюсь средь тишины...
Как пахнет липой и сиренью,
как золотеет серп луны!
27 декабря 1918

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Di chúc Lenin (V)


Bài báo của Lev Trotsky có nhan đề "Di chúc của Lenin", được viết vào tháng 12 năm 1932 tại Prinkipo (Thổ Nhĩ Kì) trong thời gian ông bị trục xuất khỏi Liên Sô từ năm 1928. Đây là một bài báo chưa công bố cho đến tận năm 1990 mới được phát hiện trong hồ sơ lưu trữ của Trotsky tại Hoa Kì và được đăng tải trên tạp chí "Horizon".
Phạm Ngọc dịch từ tiếng Nga.
Sverdlov và Stalin - những hình mẫu của nhà tổ chức
Để thấy rõ vị trí thích hợp của Di chúc trong quá trình phát triển đảng cần phải nhìn lại quá khứ.
Trước mùa xuân 1919, Sverdlov là nhà tổ chức chủ iếu của đảng. Ông không mang danh hiệu tổng bí thư vì vào thời đó chưa có. Song thực chất ông làm nhiệm vụ ấy. Sverdlov mất năm 34 tuổi, vào tháng 3-1919, do một căn bệnh gọi là bệnh cúm Tây Ban Nha. Trong thời kì bùng nổ nội chiến và dịch bệnh, gây thiệt hại cho cả cánh hữu lẫn cánh tả, đảng còn chưa kịp nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng của sự mất mát đó. Trong hai bài điếu văn, đánh giá Lenin dành cho Sverdlov phản ánh rất rõ mối quan hệ gần đây của đồng chí với Stalin. "Trong tiến trình và trong chiến thắng của cách mạng - Lenin phát biểu - Sverdlov đã thể hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn, hơn bất cứ một ai, chính bản chất của cách mạng vô sản". Sverdlov "trước tiên và hơn hết" là một nhà tổ chức. Từ một cán bộ hoạt động bí mật khiêm tốn, không phải nhà lí luận hay nhà văn, trưởng thành trong thời gian ngắn trở thành "một nhà tổ chức chiếm uy tín tuyệt đối, một nhà tổ chức của toàn chính quyền Sô-viết tại nước Nga, một nhà tổ chức công tác đảng duy nhất theo đúng nghĩa của nó". Lenin là người xa lạ với sự thổi phồng những lời ca ngợi có tính chất nghi thức hay tang lễ. Đánh giá Sverdlov vào thời đó đã nêu rõ đặc trưng nhiệm vụ của một nhà tổ chức: "Chỉ do chúng ta có một nhà tổ chức như Sverdlov, chúng ta mới có thể hoạt động trong tình hình chiến tranh mà không có một xung đột nào đáng phải bận tâm cả".
Thực tế là như thế. Trong những cuộc trò chuyện với Lenin vào thời ấy, chúng tôi nhiều lần nhận thấy điều khiến đồng chí luôn có cảm giác hài lòng về việc một trong những điều kiện thành công của đảng là sự thống nhất và đoàn kết của hàng ngũ lãnh đạo. Bất kể áp lực khủng khiếp của tình hình và những khó khăn, những vấn đề mới nảy sinh và những mâu thuẫn thực tế sâu sắc đôi lúc bùng nổ, hoạt động diễn ra rất suôn sẻ, hữu nghị, không có đấu đá nội bộ. Chúng tôi hồi tưởng lại các sự kiện của những cuộc cách mạng trước đây bằng những lời ám chỉ ngắn gọn. "Không, chúng ta làm tốt hơn nhiều". "Điều đó đem lại thắng lợi cho chúng ta". Sự đoàn kết của trung ương được kế thừa từ lịch sử chủ nghĩa bôn-sê-vich và được củng cố bởi uy tín của hàng ngũ lãnh đạo, trước tiên là Lenin. Tuy nhiên, Sverdlov mới là đầu mối chính gắn kết sự thống nhất không gì sánh được của guồng máy nội bộ. Bí quyết của đồng chí rất đơn giản - lãnh đạo vì lợi ích công việc, và chỉ vì thế. Không một cán bộ đảng nào e ngại lãnh đạo đảng có mưu đồ gì phía sau. Tính trung thực là nền tảng uy tín của Sverdlov.
Từ việc kiểm tra tư tưởng hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng, Lenin có kết luận thực tiễn trong phát biểu tại lễ tang: "Chúng ta không bao giờ có thể thay thế được con người này, nếu như hiểu rằng thay thế có nghĩa là khả dĩ có thể tìm được một đồng chí hội tụ được tất cả những năng lực như vậy... Công tác mà đồng chí ấy đảm đương một mình, giờ đây cả một nhóm người, noi theo gương của đồng chí ấy, mới có thể gánh vác nổi". Và những lời này không phải là mĩ từ sáo rỗng, mà là đề xuất thiết thực mang tính nghiêm túc. Mọi người đã hành động đúng như thế: một tập thể ba người đã thay cho một bí thư duy nhất.
Từ những lời của Lenin, ngay cả đối với kẻ không có cống hiến trong lịch sử đảng cũng thấy rõ, sinh thời Sverdlov, Stalin không đóng vai trò lãnh đạo trong bộ máy đảng, trong cách mạng tháng Mười, trong giai đoạn đặt nền móng và xây dựng nhà nước Sô-viết. Stalin cũng không hề được nhắm vào cương vị bí thư thứ nhất thay thế Sverdlov.
Tại đại hội lần thứ X, hai năm sau khi Sverdlov mất, Zinovyev và những người khác, không ngoài í định đằng sau là chống lại tôi, đẩy Stalin lên vị trí ứng cử viên chức tổng bí thư, nghĩa là đặt ông ta một cách "hợp pháp" vào vị trí mà Sverdlov đảm nhiệm một cách "thực chất", Lenin lên tiếng phản đối kế hoạch này trong nhóm thân cận của mình, bày tỏ mối quan ngại "tay đầu bếp này sẽ chế biến toàn những món cay xé lưỡi". Nội một câu nói này, so sánh với với tính cách của Sverdlov, cho ta thấy rõ hai mình mẫu hoàn toàn khác biệt của nhà tổ chức: một người không mệt mỏi làm dịu bớt va chạm, làm bớt căng thẳng công tác tập thể, còn người kia - chuyên gia về món ăn nhiều gia vị, không ngại gì sử dụng chất độc để nêm nếm. Nếu như vào tháng 3-1921 Lenin đã không phản đối đến cùng, nghĩa là công khai nêu í kiến tại đại hội phản đối ứng cử viên Stalin, chỉ là vì chức vụ bí thư, thậm chí "tổng bí thư" vẫn còn phải phục tùng lãnh đạo tập thể, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ khi quyền lực còn tập trung trong tay Bộ Chính trị. Tuy nhiên, có lẽ Lenin cũng như một số người khác chưa đánh giá đúng mức và đúng thời điểm những nguy cơ.

Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

Những mẩu chuyện Kolyma (IV)


Phạm Ngọc dịch từ nguyên tác tiếng Nga trong "Những mẩu chuyện Kolyma" của Varlam Shalamov.

Kí họa chân dung Shalamov của hs Volkov 2009
Thợ mộc
Suốt ngày đêm sương mù dầy đặc đến mức cách hai bước chân cũng không rõ mặt người. Vì thế, hầu như không thể đi xa một mình. Chỉ có thể đoán mò một vài hướng - đến nhà ăn, trạm xá, trạm gác - bằng bản năng tự có, gần như bản năng định hướng ở loài vật, và trỗi dậy ở con người trong những điều kiện thích hợp.
Người ta không cho đám lao động cải tạo xem nhiệt kế, mà cũng không nhất thiết - nhiệt độ nào đi chăng nữa thì cũng phải ra ngoài làm việc. Hơn nữa những sói già trong trại hầu như luôn xác định được chính xác bao nhiêu độ âm mà không cần nhiệt kế: nếu có sương mù, nghĩa là bên ngoài âm 40 độ; nếu trong hơi thở ra có tiếng ù ù, nhưng chưa đến nỗi khó thở - nghĩa là âm 45; còn tiếng ù ù cộng thêm khó thở - nghĩa là âm 50. Âm dưới 55 độ - là nước miếng đông thành đá ngay khi vừa nhổ ra khỏi miệng. Nước miếng đông thành đá đã được hai tuần nay rồi.
Mỗi sáng Potashnikov tỉnh giấc với hi vọng - đã bớt lạnh chưa? Hắn biết theo kinh nghiệm mùa đông năm ngoái, dù nhiệt độ có thấp thế nào, để cảm thấy được cái ấm thì quan trọng là sự thay đổi nhiệt đột ngột, sự tương phản. Nếu thậm chí giá rét còn 40-45 độ âm - trong 2 ngày sẽ ấm, còn tiếp theo hai ngày đó thì không có í tưởng dự báo gì hết.
Nhưng giá rét không bớt, và Potashnikov hiểu rằng không còn chịu đựng nổi nữa. Ăn sáng xong, bữa ăn nhiều nhất, làm việc được một giờ đồng hồ, sau đó bắt đầu thấy mệt, và cái lạnh ngấm vào thân xác, thấu tận xương - cách nói dân gian hoàn toàn không có tính ví von chút nào. Chỉ có thể buông dụng cụ lao động và nhảy lò cò hết chân này đến chân kia để khỏi bị cóng trước bữa trưa. Bữa ăn trưa nóng, món súp hổ lốn nổi tiếng và hai muôi cháo, chưa đủ hồi sức, nhưng cũng ấm người lên được chút. Rồi cũng chỉ đủ sức làm việc một giờ nữa, sau đó một ham muốn lại xâm chiếm Potashnikov, không hẳn như được sưởi ấm, không hẳn như được nằm trên những viên đá sắc nhọn, lạnh cóng và chết. Một ngày rồi cũng kết thúc, và sau bữa tối, rót nước và cầm mẩu bánh mì, không một tù cải tạo nào ăn bánh mì cùng với súp tại nhà ăn mà đều đem về lán, Potashnikov đi ngủ.
Hắn ngủ, tất nhiên, ở giường tầng trên - giường tầng dưới là một cái hầm đông lạnh, và những ai nằm ở tầng dưới, thì một nửa thời gian ban đêm phải nán lại bên lò sưởi, đổi tay ôm lấy cái lò sưởi còn sót lại chút hơi ấm. Củi không bao giờ đủ: để lấy củi phải đi bộ 4 cây số sau khi làm việc, và mọi người bằng mọi cách đều lẩn tránh cái nghĩa vụ này. Ở tầng trên có ấm hơn, tất nhiên dù sao người ta cũng mặc đồ nằm ngủ i như lúc đi làm - đội mũ, áo bông, áo khoác, quần bông. Ở trên có ấm hơn, nhưng sau một đêm tóc tai cũng đông cứng dính vào gối.
Potashnikov cảm thấy càng ngày sức càng kiệt dần. Hắn, một gã đàn ông 30 tuổi, thế mà khó khăn lắm mới leo nổi lên giường tầng trên và cũng khó khăn lắm mới tuột xuống được. Gã nằm giường bên cạnh mới chết hôm qua, tự nhiên lăn ra chết thôi, sáng không tỉnh giấc nữa, và cũng chẳng ai bận tâm hắn chết vì lẽ gì, cứ như thể chỉ có một nguyên nhân duy nhất mà ai cũng biết. Tay trực nhật lấy làm mừng là gã kia không chết lúc tối mà vào buổi sáng - tay trực nhật được hưởng khẩu phần của người chết trọn ngày hôm đó. Ai cũng hiểu điều này, Potashnikov đánh bạo đến gần tay trực nhật: "Chia cho tớ chút nhé", nhưng tay trực nhật chửi bới rất dữ, kiểu mà chỉ những đứa mạnh hơn đứa khác mới dám chửi vì biết rằng sẽ không bị sao hết. Duy có vài trường hợp đặc biệt là thằng yếu dám chửi thằng mạnh - chẳng qua đó là sự liều lĩnh tuyệt vọng. Potashnikov im lặng bỏ đi.
Phải tìm ra giải pháp, phải nghĩ ra một cái gì đó với não trạng ọp ẹp của mình. Hoặc là chết. Potashnikov không sợ chết. Nhưng có một ham muốn cháy bỏng thầm kín, một sự bướng bỉnh cuối cùng - mong muốn được chết tại một bệnh viện nào đó, trên giường bệnh, trong chăn nệm, trong sự quan tâm của người khác, kể cả người nhà nước, chứ không phải chết ngoài đường, trong giá rét, dưới gót giày của lính canh, hoặc trong lán giữa tiếng chửi thề, sự bẩn thỉu và sự thờ ơ của mọi người. Hắn không kết tội mọi người vì sự thờ ơ. Từ lâu hắn đã hiểu nguồn cơn của sự trì độn, sự lạnh lẽo của tâm hồn. Giá rét, chính nó, thứ khiến nước miếng đông thành đá khi vừa nhổ ra khỏi miệng, đã ngấm sâu vào tâm hồn con người. Nếu xương cốt có thể đông cứng, thì não cũng có thể đông cứng và trì độn, và tâm hồn cũng đóng băng luôn. Trong giá buốt thì chẳng thể nghĩ ra được gì. Rất đơn giản. Trong cái rét và cái đói, não hấp thụ chất bổ kém, tế bào não khô lại - đó là quá trình vật chất rõ ràng, và có trời mới biết, quá trình này có thuận nghịch hay không, như người ta nói trong i học, tương tự như hoại tử vì lạnh, hoặc hủy hoại vĩnh viễn. Tâm hồn cũng vậy - nó bị lạnh cóng, co lại và có lẽ sẽ buốt giá vĩnh viễn. Tất cả í nghĩ của Potashnikov trước đây - bây giờ chẳng còn gì, ngoài mong muốn có thể chịu đựng được, chờ cho qua được đợt giá rét mà vẫn còn sống.
Tất nhiên, cần sớm tìm được phương cách để cứu vãn. Những cách như vậy không có nhiều lắm đâu. Phải trở thành đội trưởng hoặc người giám sát, nói chung là thân cận với các sếp quản giáo. Hoặc gần bếp ăn. Nhưng có đến cả hàng trăm đứa cạnh tranh suất phục vụ bếp ăn, còn chức đội trưởng thì Potashnikov đã từ chối, không chịu nhận một năm trước đây, vì hắn đã tự hứa với bản thân không lợi dụng để hiếp đáp người khác ở đây. Thậm chí vì mưu cầu cá nhân hắn cũng không muốn để những bạn tù đã bỏ mạng phỉ nhổ vào mặt hắn những lời nguyền rủa trước khi chết. Potasnikov mỏi mòn chờ đợi cái chết từ ngày này sang ngày khác, cái ngày ấy có lẽ sắp đến rồi.
Nuốt hết bát súp nóng, nhai nốt mẩu bánh mì, Potashnikov lê đến chỗ làm việc, khó nhọc lắm mới nhấc nổi chân. Cả đội đứng xếp hàng trước khi bắt tay vào việc, và bước dọc theo hàng là một người mập mạp, mặt mũi đỏ hồng, đội mũ da hươu, đi ủng da hươu kiểu của người Yakut và mặc áo lông ngắn màu trắng. I nhìn những khuôn mặt kiệt sức, bẩn thỉu, dửng dưng của đám cải tạo. Mọi người im lặng dậm chân tại chỗ, đợi kết thúc sự trì hoãn bất ngờ. Đội trưởng đứng ngay đó, kính cẩn nói điều gì với người đội mũ da hươu:
- Tôi cam đoan với sếp, Alexander Evgenyevich, ở đội tôi không có những thợ ấy. Sếp đến chỗ đội Sobolyev, ở đó có đám thợ thuyền, còn ở đây toàn bọn có học hành, thế mới khổ chứ.
Người đội mũ da hươu ngưng nhìn đám người và quay sang đội trưởng:
- Đội trưởng mà không biết người của đội mình, không thèm biết, không muốn giúp quản trại chúng tao.
- Tùy sếp định liệu, Alexander Evgenyevich.
- Được, tao cho mày thấy đây. Mày họ gì?
- Ivanov, thưa sếp.
- Xem đây. Ê, mọi người chú í. - Người đội mũ da hươu đứng trước đội. - Ban quản lí trại cần thợ mộc để đóng thùng chở đất.
Tất cả im lặng.
- Đấy, sếp thấy đấy, Alexander Evgenyevich, - đội trưởng thì thầm.
Đột nhiên Potashnikov nghe thấy giọng nói của chính mình:
- Có. Tôi là thợ mộc. - Và bước lên một bước.
Từ cánh bên phải một người khác cũng lặng lẽ bước ra. Potashnikov biết hắn - đó là Grigoryev.
- Đấy, - người đội mũ da hươu quay qua đội trưởng, - học hành gì mày, toàn cứt đái. Hai đứa theo tao.
Potashnikov và Grigoryev lê bước theo người đội mũ da hươu. I ngừng lại.
- Nếu đi kiểu này, - giọng i khàn khàn - ta sẽ không kịp ăn trưa. Thế này. Tao đi trước, tụi bay đến xưởng mộc gặp xưởng trưởng Sergeyev. Biết xưởng mộc ở đâu không?
- Biết, biết! - Grigoryev la lớn. - Làm ơn cho điếu thuốc đi sếp.
- Lại bài ca cũ rích, - người đội mũ da hươu lầm bầm qua kẽ răng, không móc bao thuốc ra khỏi túi áo mà chỉ rút hai điếu.
Potashnikov đi trước, vẻ căng thẳng nghĩ ngợi. Hôm nay sẽ được sưởi ấm ở xưởng mộc - mài lưỡi rìu và đẽo cán rìu. Rồi mài lưỡi cưa. Chẳng việc gì phải vội. Trước bữa trưa họ sẽ nhận dụng cụ, kê biên, tìm thủ kho. Đến tối nay, khi phát hiện hắn không biết đẽo cán rìu, không biết dùng cưa, người ta sẽ đuổi hắn, và ngày mai hắn sẽ trở về đội. Tuy nhiên, cả ngày hôm nay sẽ được sưởi ấm. Mà cũng có thể cả ngày mai, rồi ngày kia hắn sẽ trở thành thợ mộc không chừng, nếu như Grigoryevich là thợ mộc. Hắn sẽ làm thợ phụ cho Grigoryev. Mùa đông chấm dứt. Mùa hè, hắn sẽ sống sót qua mùa hè ngắn ngủi.
Potashnikov dừng lại đợi Grigoryev.
- Cậu có biết... nghề mộc không? - hắn hỏi, thở gấp, hồi hộp với hi vọng bất ngờ.
- Cậu thấy đấy, - Grigoryev trả lời vui vẻ, - tớ là nghiên cứu sinh đại học ngữ văn Moskva. Tớ nghĩ một người có trình độ đại học, lại là khoa nhân văn, chắc chắn phải biết đẽo cán rìu và sử dụng cưa. Nhất là làm việc ấy bên cạnh lò sưởi.
- Nghĩa là, cả cậu...
- Chẳng có nghĩa là gì hết. Chúng ta sẽ lừa họ hai ngày, rồi sau đó - mặc xác sau đó sẽ thế nào.
- Chúng ta lừa họ được một ngày thôi. Ngày mai họ trả ta về đội.
- Không đâu. Trong vòng một ngày họ chưa kịp để í đến xưởng mộc đâu. Còn phải trình báo, danh sách đủ thứ. Sau đó mới đuổi về...
Cả hai người vất vả lắm mới đẩy nổi cánh cửa đóng băng dính cứng. Chính giữa xưởng mộc đặt một lò sưởi bằng sắt cháy đỏ rực, năm người thợ, không mũ lông, không áo bông, đứng bên bàn làm việc của họ. Hai người mới đến quỳ gối trước lò sưởi, trước thần ánh sáng, một trong những vị thần đầu tiên của nhân loại. Họ tháo găng, xoa xoa tay hơ trước hơi nóng, như muốn thọc cả tay vào ngọn lửa hồng. Những ngón tay bị cóng lâu ngày, trở nên mất cảm giác, chưa kịp cảm thấy hơi ấm ngay tức thì. Khoảng một phút sau, Grigoryev và Potashnikov gỡ mũ lông và cởi áo khoác, vẫn còn quỳ gối chưa đứng lên.
- Các cậu có việc gì? - một người thợ mộc hỏi họ với vẻ không thân thiện.
- Chúng tôi là thợ mộc. Đến đây làm việc. - Grigoryev trả lời.
- Theo lệnh của Alexander Evgenyevich. - Potashnikov nhanh nhảu tiếp lời.
- Xưởng trưởng đã bảo rồi, đưa các cậu lưỡi rìu để tra cán, - Armshtrem, một thợ làm dụng cụ đứng tuổi, đang tra cán vào xẻng ở một góc xưởng.
- Chúng tôi, chúng tôi...
- Cầm lấy, - Armshtrem nhìn họ không mấy tin tưởng và bảo. - Đây, hai lưỡi rìu, cưa và dũa. Sau đó trả lại dũa. Dùng rìu của tôi đẽo hai cán rìu đi.
Armshtrem mỉm cười.
- Tiêu chuẩn một ngày là 30 cán rìu đấy, - ông bảo.
Grigoryev nhận thanh gỗ từ tay Armshtrem và bắt đầu đẽo. Hồi còi báo giờ ăn trưa vang lên. Armshtrem vẫn chưa mặc áo khoác, im lặng nhìn Grigoryev làm việc.
- Bây giờ đến cậu, - ông ta bảo Potashnikov. Potashnikov đặt thanh gỗ lên khúc gỗ kê, cầm cái rìu từ tay Grigoryev và bắt đầu đẽo.
- Thôi được rồi, - Armshtrem bảo.
Mấy người thợ mộc đã đi ăn trưa, và trong xưởng không còn ai ngoài ba người.
- Lấy hai cái cán này của tôi và tra vào rìu. - Arnshtrem đưa Grigoryev mấy cái cán rìu đã làm xong - Mài lưỡi cưa đi. Hôm nay và ngày mai ngồi bên lò sưởi mà hơ. Ngày kia trở về chỗ cũ. Này, cầm mẩu bánh mì mà ăn trưa.
Hôm nay và ngày mai bọn họ được hơ ấm bên lò sưởi, đến ngày kia cái lạnh sẽ chỉ còn âm ba mươi độ - vậy là hết mùa đông.
1954

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012

Những mẩu chuyện Kolyma (III)


Phạm Ngọc dịch từ nguyên tác tiếng Nga trong "Những mẩu chuyện Kolyma" của Varlam Shalamov.

Bìa sách "Những mẩu chuyện Kolyma"
Trong đêm vắng
Bữa tối vừa xong. Glebov chậm rãi liếm bát, tỉ mẩn vét từng vụn bánh mì trên bàn vào lòng bàn tay trái rồi đưa lên miệng, thận trọng liếm sạch vụn bánh trong bàn tay. Không vội nuốt ngay, hắn cảm nhận nước miếng ứa ra đầy miệng và thèm khát quyện vào những mẩu bánh tí hon. Glebov chẳng thể nói là ngon hay không nữa. Ngon là cái quái gì chứ, quá vớ vẩn để đem ra so sánh với cái cảm giác khoái trá, quên cả đất trời do món ăn đem lại. Glebov không vội nuốt, cứ để iên mặc vụn bánh tan trong miệng, tan nhanh mà.
Cặp mắt trũng sâu của Bagretsov sáng lên, nhìn chăm chăm vào miệng Glebov - chẳng gã nào có đủ nghị lực quay mặt đi để mắt khỏi trân trối vào miếng ăn đang từ từ biến mất trong miệng người khác. Glebov nuốt nước miếng, và lúc đó Bagretsov mới chịu đưa mắt ra phía chân trời nơi mặt trăng lớn màu cam đang nhú lên.
- Tới giờ rồi, - Bagretsov nói.
Họ im lặng đi dọc theo lối mòn dẫn tới vách đá và trèo lên một bậc thấp bao quanh núi đá; mặc dù mặt trời mới lặn, thế mà mấy tảng đá đã lạnh ngắt rồi, cái đám đá ban ngày nung nóng dẫy bàn chân trần qua lần dép cao su. Glebov cài nút áo bông. Đi như thế mà cũng chẳng ấm người lên được là mấy.
- Còn xa không? - hắn thì thầm.
- Xa, - Bagretsov khẽ trả lời.
Họ ngồi xuống nghỉ. Chẳng có chuyện gì để nói, mà cũng chẳng có quái gì để nghĩ - mọi việc đều rõ ràng và đơn giản. Trên một bãi phẳng phía cuối bậc đá là những đống đá vung vãi lộn xộn, rêu đã tróc ra khô cứng.
- Tớ thừa sức làm một mình, - Bagretsov cười nhăn nhúm, - nhưng hai đứa thì vui hơn. Vả lại mình là chiến hữu mà...
Họ được chuyển đến đây vào năm ngoái trên cùng một chuyến tàu. Bagretsov dừng lại.
- Nằm xuống, kẻo tụi nó thấy.
Họ nằm xuống và bắt đầu liệng những hòn đá sang một bên. Chẳng có hòn nào quá to đến mức hai người phải nhỏm dậy xúm vào khiêng mới được, vì bọn chất đá sáng nay cũng chẳng khỏe gì hơn Glebov.
Bagretsov khẽ chửi thề. Hắn bị đứt tay chảy máu. Hắn đắp chút cát vào vết thương, rứt một miếng bông từ lớp lót áo khoác và rịt vào chỗ bị thương - máu vẫn rỉ ra.
- Máu loãng, khó đông, - Glebov thản nhiên.
- Cậu là bác sĩ à? - Bagretsov hỏi, miệng mút vết thương.
Glebov lặng thinh. Cái thời mà hắn còn là bác sĩ có vẻ như xa xôi lắm rồi. Mà có cái thời đó hay không nhỉ? Luôn cả cái thế giới ở phía bên kia núi, bên kia biển dường như cũng là một giấc mơ, là tưởng tượng. Chỉ những giờ phút này là có thực - một ngày bắt đầu từ lúc ngóc đầu dậy bởi tiếng kẻng báo thức rồi quần quật cho tới khi chẳng nghĩ ngợi gì được nữa, cũng chẳng còn sức đâu mà nghĩ. Ai cũng thế, ngày nào cũng thế.
Hắn không biết quá khứ của đám người xung quanh, và cũng chẳng quan tâm. Nói chung, nếu như ngày mai đây tay Bagretsov này có tuyên bố hắn là tiến sĩ triết học hay đô đốc hải quân gì gì nữa, thì Glebov cũng tin ngay, chả nghĩ ngợi gì. Mà hắn có từng là bác sĩ không nhỉ? Hắn không chỉ mất cái thói quen suy xét sự vật mà còn mất luôn thói quen quan sát sự vật nữa. Glebov nhìn Bagretsov mút máu ở đầu ngón tay bẩn thỉu nhưng không nói gì. Mọi thứ cứ lướt qua trong nhận thức, mà hắn không cách nào tìm được lời giải đáp và cũng chẳng buồn tìm làm gì. Cái í thức còn sót lại trong hắn - có lẽ không còn là í thức của con người - vô cùng phiến diện và giờ đây chỉ còn nhắm vào một mục đích duy nhất là làm sao moi những hòn đá này ra càng nhanh càng tốt.
- Có sâu không? - Glebov hỏi khi họ tạm nghỉ tay.
- Sâu thế quái nào được? - Bagretsov trả lời. Và Glebov nhận thấy câu hỏi của hắn thật là vớ vẩn, cái hố này tất nhiên chẳng thể sâu được.
- Đây rồi! - Bagretsov nói.
Hắn chạm vào một ngón chân người. Ngón chân cái thòi ra dưới những hòn đá, trông rõ mồn một dưới ánh trăng. Cái ngón chân khác hẳn ngón chân của Glebov và Bagretsov, không phải vì nó lạnh cứng và hết sinh khí, về khoản này giữa bọn tù sống và bọn tù chết cũng chẳng khác nhau là bao. Có chăng là móng chân của xác chết được cắt gọn ghẽ, còn ngón chân thì đầy đặn và mềm mại hơn của Glebov. Họ vội vã vứt những hòn đá còn chất trên thây người sang một bên.
- Tên này còn trẻ lắm, - Bagretsov nói. Cả hai khó nhọc nắm chân xác chết lôi ra khỏi huyệt.
- To con quá, - Glebov vừa nói vừa thở hổn hển.
- Nếu không to khỏe như thế, - Bagretsov nói - tụi nó đã chôn gã giống như chôn tụi mình rồi, thì hôm nay mình còn phải mò ra đây làm khỉ gì.
Họ duỗi thẳng tay xác chết ra rồi lột cái áo.
- Này, cái quần đùi gần như mới cứng! - Bagretsov nói, vẻ mãn nguyện.
Họ lột luôn quần đùi. Glebov dấu nó dưới lần áo bông.
- Cậu mặc vào người thì hơn, - Bagretsov bảo.
- Không, tớ không thích, - Glebov lầm bầm.
Họ đặt xác chết trở lại huyệt rồi lấp đá lên trên.
Vầng trăng mới mọc hắt cái ánh xanh xanh lên những hòn đá, lên khu rừng thưa, khiến từng bậc đá, từng ngọn cây có vẻ gì là lạ, không như lúc ban ngày. Mọi vật vẫn thật như trước, nhưng không như lúc ban ngày. Dường như không gian đang khoác một bộ mặt thứ hai, bộ mặt của đêm.
Cái quần lót của người chết ấm lên trong lần áo khoác của Glebov, không còn cảm giác lạ lẫm nữa.
- Giờ mà có tí khói nhỉ! - Glebov nói, vẻ mơ màng.
- Mai hút cũng chưa muộn.
Bagretsov mỉm cười. Ngày mai họ sẽ bán cái quần lót đi, đổi lấy ít bánh mì, có khi kiếm được chút thuốc lá nữa cũng nên...
1954

Thứ Năm, 8 tháng 3, 2012

Những mẩu chuyện Kolyma (II)



Phạm Ngọc dịch từ nguyên tác tiếng Nga trong "Những mẩu chuyện Kolyma" của Varlam Shalamov.
Chơi hàng cống
Đám tù chơi bài trong lán đội chăn ngựa của Naumov. Những giám thị trực ban chẳng khi nào để mắt tới lán của đội chăn ngựa, vì nhiệm vụ chủ iếu của họ là "chăm sóc" những phạm nhân bị xử theo điều 58[1]. Chẳng ai tin tưởng bọn phản cách mạng mà giao ngựa cho chúng chăn. Nhưng thực sự, các sếp trại giam - những con người thực tế - thầm càu nhàu trong bụng, vì họ mất những tay chăn ngựa tốt nhất, tận tụy nhất, song quy định là như vậy và phải tuân thủ nghiêm ngặt. Tóm lại, đám tù chăn ngựa không phải là bọn nguy hiểm, và hàng đêm chúng tụ tập ở đó để chơi bài, đấu tay đôi.
Ở góc phải lán, trên cái giường tầng dưới trải mấy tấm chăn bông đủ màu. Một ngọn "Kolymka" treo trên cột sát góc lán bằng một sợi dây - đó là loại đèn tự chế thắp bằng hơi xăng. Một vỏ lon đồ hộp, trên nắp gắn 3 đến 4 ống đồng - toàn bộ dụng cụ chỉ có thế. Để thắp đèn, người ta đặt một hòn than hồng lên nắp hộp, xăng trong hộp được nung nóng, hơi xăng bốc lên theo ống đồng và được mồi bằng một que diêm.
Giữa những tấm chăn là một cái gối bẩn, hai tay chơi ngồi khoanh chân hai bên - kiểu ngồi cổ điển của cuộc đấu đ đen trong tù. Một cỗ bài mới toanh đặt trên gối. Đó không phải những quân bài bình thường, mà là cỗ bài tự chế, do những tay nghề bậc thầy trong tù làm ra nhanh thần tốc. Để chế tạo cần có giấy (một quyển sách bất kì), mẩu bánh mì (nhai nát rồi dùng vải lọc để lấy tinh bột làm hồ dán), mẩu bút chì hóa học (thay cho mực in) và dao (để cắt lá bài và cắt rập in hình trên bài).
Cỗ bài hôm nay vừa được chế tác từ tập sách của Victor Hugo - quyển sách ai đó hôm qua để quên ở văn phòng. Giấy láng và dầy nên không cần phải dán nhiều lớp như giấy mỏng. trong trại bút chì hóa học bao giờ cũng bị tịch thu khi khám xét tù nhân. Giám thị cũng thu chúng nếu tìm thấy khi khám xét đồ tiếp tế. Người ta làm thế không phải chỉ để ngăn chặn trường hợp in tài liệu và chế tạo con dấu (trong tù có nhiều nghệ nhân về khoản này), mà còn để loại trừ mọi khả năng có thể cạnh tranh với sự độc quyền sản xuất bài lá của nhà nước. Từ bút chì hóa học có thể làm ra mực, đặt những cái rập cắt bằng giấy rồi bôi mực lên để in các họa tiết cho những lá bài - quân đầm, quân bồi, quân mười các loại... Các chất của bài không phân biệt theo màu - các tay chơi không đòi hỏi điều này. Quân bồi bích chẳng hạn, tương ứng với biểu tượng chất "bích" ngược chiều nhau ở hai góc lá bài. Về hình dạng và bố trí họa tiết quân bồi thì hàng trăm năm nay vẫn i như nhau, cùng một mẫu - các họa sĩ dùng tay vẽ hình một chàng thảo khấu trẻ tuổi theo phong cách "hiệp sĩ".
Cỗ bài mới nằm trên gối, một tay chơi vỗ lên nó bằng bàn tay bẩn thỉu với những ngón tay nhỏ nhắn, trắng trẻo, không quen lao động. Móng tay ngón út để dài một cách lạ thường - cũng là kiểu cách khoe mẽ của một tay anh chị, tương tự như "răng vàng", nghĩa là miếng bọc răng bằng đồng thau, để bọc những cái răng hoàn toàn khỏe mạnh. Trong tù có những nghệ nhân, những chuyên gia chế tác răng giả tự xưng, đã kiếm chác được khối thứ nhờ sản xuất những miếng bọc răng và luôn tìm được nguồn tiêu thụ. Còn việc tô màu móng tay cũng rất phổ biến trong giới tội phạm, nếu như có thể kiếm được màu sơn trong điều kiện ở tù. Móng tay vàng chóe được chăm chút tỉ mỉ ánh lên như viên đá quý. Chủ nhân của móng tay ấy dùng tay trái vuốt mái tóc màu sáng bết lại vì bẩn. Nó được húi gọn theo kiểu boxer rất điệu nghệ. Cái trán thấp không một nếp nhăn, hai túm lông mày màu vàng, cái miệng nhỏ trông như cái nơ - tất cả những thứ đó tạo cho khuôn mặt cái vẻ ngoài đặc trưng của một tên trộm cắp: không dễ nhận diện. Khuôn mặt ấy khó lòng mà nhớ nổi. Nhìn thấy hắn và quên ngay, không còn ghi nhớ được nét gì, không nhận biết khi gặp lại. Đó là Sevochka, một tay trùm nổi tiếng của môn ters, stos và bura[2] - ba kiểu chơi bài cổ điển, kẻ nắm vững và diễn giải một cách hào hứng hàng ngàn luật chơi cần phải tuân thủ nghiêm ngặt trong trò đấu trí này. Theo những gì người ta đồn, thì Sevochka là một "tay chơi siêu hạng" - nghĩa là có kiến thức và sự tinh nghệ của một tay kì bẽo. Tất nhiên hắn là một tay bạc bịp; mà trò chơi danh giá của giới trộm cắp chính là trò lừa đảo: theo dõi và lật tẩy đối thủ, đó là quyền của một tay chơi, song chủ iếu là phải biết cách lừa đảo, biết cách gian lận để thắng, sao cho đối thủ không tài nào phát hiện được.
Họ luôn chơi tay đôi - một chọi một. Không một cao thủ kì bẽo nào lại hạ mình với lối chơi đồng đội tính điểm. Không e ngại đối đầu với những "tay tổ", tương tự như một cao thủ đánh cờ luôn tìm đối thủ mạnh nhất để so tài.
Đối thủ của Sevochka hôm nay chính là Naumov, đội trưởng đội chăn ngựa. Hắn lớn tuổi hơn Sevochka (tuy nhiên, Sevochka bao nhiêu tuổi - hai mươi? ba mươi? bốn mươi?), đó là một gã nhỏ con, tóc đen, với đôi mắt đen sâu hoắm toát vẻ đau khổ, khiến lúc đầu chưa biết hắn là một tay đạo chích tuyến đường sắt từ Kuban, tôi cứ nghĩ hắn là một tu sĩ hành hương hay thành viên của giáo phái "Chúa biết", giáo phái mà chúng tôi từng gặp trong trại cả chục năm nay. Ấn tượng càng đậm nét khi thấy sợi dây bện xỏ chiếc thánh giá đeo trên cổ Naumov - cổ áo hắn không cài nút. Cây thánh giá này không phải trò đùa báng bổ bất kính, hoặc để làm dáng hay ngẫu hứng đeo chơi. Vào thời đó các tay anh chị thường đeo trên cổ cây thánh giá bằng nhôm - nó như một dạng huân chương, dấu hiệu nhận biết, tương tự như vết xăm.
Vào những năm 20 đám giang hồ thường đội mũ lưỡi trai học viên trường nghề, trước đó một chút là mũ sĩ quan. Những năm 40, vào mùa đông chúng đội mũ da không chóp, bẻ gập cổ giầy ống, và đeo thánh giá trên cổ. Thánh giá thường để trơn, nhưng nếu quanh đó có tay họa sĩ nào, thì chúng bảo họ dùng vật nhọn khắc những họa tiết theo đề tài iêu thích: trái tim, quân bài, đóng đinh câu rút, phụ nữ khỏa thân... Thánh giá của Naumov để trơn. Nó lủng lẳng trên khuôn ngực trần đen đúa của Naumov, che khuất một phần hình xăm dòng chữ màu xanh mấy câu thơ của Esenin, nhà thơ duy nhất được thế giới tội phạm thừa nhận và tôn sùng:
Đường đời ôi quá ngắn,
Mà lầm lỗi chất chồng.
- Chơi gì đây? - Sevochka rít qua kẽ răng với vẻ khinh khỉnh cố hữu: đó cũng được coi là kiểu cách sành điệu để mở đầu cuộc chơi.
- Chơi bằng giẻ[3]. Đây này... - Naumov vỗ vỗ vào vai áo mình.
- Năm trăm, - Sevochka định giá bộ quần áo.
Đáp lại là một tràng chửi thề oang oang, có í bảo đối thủ món ấy đáng giá hơn nhiều. Đám tù khán giả xung quanh kiên nhẫn chờ đến hồi chung cuộc của khúc dạo đầu truyền thống này. Sevochka cũng tỏ ra không kém, i chửi thề còn độc địa hơn để hạ giá món đồ. Cuối cùng bộ quần áo được định giá một ngàn. Về phía mình, Sevochka cũng đặt mấy cái áo chui đầu đã sờn. Sau khi mấy cái áo pull ấy được định giá và vứt lên tấm chăn, Sevochka xáo bài.
Tôi và Garkunov, trước kia là một kĩ sư ngành dệt, cưa củi thuê cho lán của Naumov. Đây là công việc ban đêm, sau khi hoàn thành việc được giao ban ngày, phải cưa và chẻ củi cho ngày hôm sau. Chúng tôi đến lán đội chăn ngựa ngay sau khi ăn tối xong - ở đây ấm hơn bên lán chúng tôi. Sau khi xong việc, tay trực nhật bên lán Naumov đổ vào gàu-mên của bọn tôi ít súp hổ lốn nguội lạnh - những thứ còn sót lại của món ăn duy nhất và thường xuyên mà trong thực đơn của bếp ăn gọi là "súp bột nhào kiểu Ukraina", và mỗi đứa một mẩu bánh mì. Bọn tôi kiếm một chỗ trên sàn ở một xó rồi ngồi xuống thưởng thức thành quả lao động. Chúng tôi ngồi ăn trong bóng tối - ngọn "Kolymka" chỉ chiếu sáng chỗ sới bạc, tuy nhiên, theo đúc kết chính xác của các tay sói già trong trại thì ngoài giờ ăn, tốt nhất là đừng đưa thìa lên miệng trước mặt đứa khác. Bây giờ chúng tôi xem cuộc đấu giữa Sevochka và Naumov.
Naumov thua bộ quần áo. Cái quần dài và áo khoác nằm cạnh chỗ Sevochka. Đặt cược cái gối. Móng tay Sevochka huơ lên không trung một hình vẽ bí hiểm gì đó. Những lá bài biến mất trong tay hắn, rồi lại hiện ra. Naumov còn mặc độc chiếc áo lót, cái gi-lê cổ lệch may bằng vải sa-tanh cũng ra đi theo chiếc quần dài. Đám đàn em khoác lên vai hắn cái áo bông, nhưng hắn rũ mạnh vai và cái áo rơi xuống sàn. Tất cả bỗng lặng ngắt như tờ. Sevochka chậm rãi dùng móng tay gại gại lên cái gối.
- Tao đặt cái chăn, - giọng Naumov khàn khàn.
- Hai trăm, - Sevochka đáp, giọng thản nhiên.
- Một ngàn, đồ chó! - Naumov quát lớn.
- Gì chứ? Cho ba cái thứ giẻ rách vớ vẩn này hả! - Sevochka riết róng. - Ba trăm, nể mặt mày lắm đấy.
Cuộc chơi tiếp tục. Theo luật thì cuộc chiến chưa thể kết thúc một khi đối thủ vẫn còn món gì để đặt.
- Tao đặt đôi giày.
- Miễn, - Sevochka trả lời dứt khoát. - Không chơi "giẻ" trại phát.
Mấy món định giá vài rúp cũng đội nón ra đi: cái khăn kiểu Ukraina in hình con gà, hộp đựng thuốc lá khắc kí họa chân dung Gogol - tất cả đều vào túi Sevochka. Trên làn da mặt đen sạm của Naumov đã xuất hiện vệt đỏ ửng.
- Chơi "hàng cống", - hắn nói.
- Lại còn thế nữa kia, - Sevochka đáp nhanh và đưa tay ra sau: ngay lập tức, một điếu thuốc châm sẵn được đặt vào. Sevochka rít một hơi dài và ho lục khục. - "Hàng cống" của mày là gì? Đám mòng mới chưa vào - mày đào đâu ra? Trấn của bọn canh tù chắc?
Cuối cùng bọn chúng cũng đồng í chơi "hàng cống", cho nợ, theo luật thì không nhất thiết phải cho thiếu nợ, nhưng Sevochka không muốn làm mất lòng Naumov, tước đi cơ hội cuối cùng để hắn gỡ bạc.
- Chơi một trăm, - hắn uể oải nói. Cho nợ trong một giờ.
- Đưa bài đây. - Naumov sửa lại thánh giá rồi ngồi vào. Hắn gỡ được chăn, gối, quần dài, và rồi sau đó lại thua sạch sẽ.
- Làm ít cao[4] chăng, - Sevochka vừa nói vừa bỏ chiến lợi phẩm vào cái hòm gỗ lớn. - Trong lúc tao đợi.
- Nấu đi tụi bay, - Naumov bảo.
Đang nói về một món thức uống lạ thường ở phương Bắc - trà rất đặc, khoảng hơn 50 gram trà một chút nấu trong cái ca nhỏ. Đắng khủng khiếp, người ta uống từng ngụm và nhấm nháp với cá mặn. Nó đánh tan cơn buồn ngủ tức khắc và vì thế rất được chuộng trong giới giang hồ hay cánh lái xe đường dài phương Bắc. Món cao trà này rất hại cho tim mạch, nhưng tôi biết nhiều tay nghiện trà này hầu như chẳng bệnh tật gì. Sevochka húp sột soạt từng ngụm trong cái ca bọn kia đưa hắn.
Ánh mắt nặng nề tối sầm của Naumov lướt một vòng đám người xung quanh. Tóc hắn rũ xuống. Ánh mắt lướt đến tôi rồi dừng lại.
Một í nghĩ gì đó lóe lên trong đầu Naumov.
- Thằng kia, ra đây.
Tôi bước ra chỗ sáng.
- Cởi áo ra.
Rõ chuyện gì rồi, mọi người chăm chú theo dõi Naumov định làm gì.
Dưới lớp áo bông tôi còn độc cái áo lót trại phát - chiếc áo va-rơi được phát hai năm trước đã mủn nát rồi. Tôi mặc áo lại.
- Mày ra đây, - Naumov trỏ mặt Garkunov bảo.
Garkunov cởi áo bông. Mặt cắt không còn hột máu. Dưới lần áo lót bẩn thỉu là chiếc áo len cổ chui - món đồ cuối cùng vợ hắn đưa trước lúc đi xa, và tôi biết Garkunov đã nâng niu nó như thế nào, giặt nó trong phòng tắm, mặc lên người cho đến khi khô, chưa một phút rời tay, - vậy mà sắp sửa bị các bạn tù trấn lột bây giờ.
- Cởi ra, thằng kia, - Naumov bảo.
Sevochka khoái trá vung vẩy ngón tay - hàng thơm đây! Nếu đem giặt rồi hấp lại cái áo len này, có khi hắn mặc luôn cũng nên - họa tiết đẹp thế.
- Không cởi, - giọng Garkunov khàn khàn. - Kể cả lột da tao...
Bọn kia nhào vào, nện hắn khuỵu xuống.
- Nó cẩu xực tụi bay ơi, - ai đó la lên.
Garkunov chầm chậm nhỏm dậy khỏi sàn, dùng ống tay áo chùi máu trên mặt. Và lúc này Sashka, trực ban của lán Naumov, chính thằng Sashka lúc nãy vừa đổ súp cho bọn tôi để trả công cưa củi, hơi cúi xuống và rút cái gì đó ra từ trong ủng. Hắn vung tay về phía Garkunov, Garkunov hộc lên một tiếng rồi đổ vật xuống.
- Tụi bay không phải thế, không được sao! - Sevochka la lên. Trong ánh lập lòe của chiếc đèn hơi xăng, trông rõ khuôn mặt xám ngoét của Garkunov.
Sashka kéo thẳng tay người chết ra, xé áo lót rồi lột chiếc áo len qua đầu. Chiếc áo len màu đỏ, khó nhận thấy vết máu trên đó. Sevochka thận trọng để máu khỏi dây vào tay, bỏ chiếc áo vào hòm gỗ. Cuộc chơi kết thúc, tôi có thể về lán. Giờ lại phải tìm đồng bọn khác để cưa củi.
1956


Chú thích của người dịch:
[1] Điều khoản 58 của Bộ Luật Hình sự là tội chống phá nhà nước Sô-viết.
[2] ters, stos, bura, rams... - tên các kiểu chơi bài, rất phổ biến trong giới giang hồ và trong trại giam.
[3] tiếng lóng chỉ những vật dụng cá nhân như quần áo, mền gối, đồ vải, giày...
[4] Chifir - món trà phổ biến trong nhà tù ở Nga, trà thường được đong bằng bao diêm, đổ vào ca nước sôi, không khuấy, sau đó đun nhỏ lửa từ 10-15 phút cho đến khi trà chìm hết xuống đáy ca.

Thứ Tư, 7 tháng 3, 2012

Vì dòng sông Ayan-Uryakh



(thơ: Varlam Shalamov; bản dịch: Phạm Ngọc)

Ta nâng chén vì con đường khốn nhọc
Vì những ai quỵ ngã giữa chừng
Vì những tấm thân dường cạn sức
Mặc lòng, vẫn lê gót chân sưng

Vì những đôi môi xám xanh khô khốc
Vì những mặt người hệt một sắc vô hồn
Vì da thịt cóng dưới lần áo rách
Bàn tay trần trong rét cắt mùa đông

Vì suất nước đong bằng từng lon sắt
Nướu tứa máu bầm, sụt hết chân răng
Vì nanh nhọn khua tù từ bảnh mắt
Lũ chó canh phè phỡn hung hăng

Vì mặt trời nghiêng nghiêng từ cao vút
Rọi tia nhìn không gợn chút lăn tăn
Vì những mộ bia rợn màu trắng ngút
Bão tuyết mãi vun đầy chẳng băn khoăn

Vì khẩu phần - mẩu bánh dai ẩm ướt[1]
Những miệng tù thèm khát nuốt vội vàng
Vì nhờn nhợt bầu trời quá tầm mắt ngước
Vì dòng Ayan-Uryakh[2] trôi miên man!


Nguyên văn tiếng Nga
Тост за речку Аян-Урях

Я поднял стакан за лесную дорогу,
За падающих в пути,
За тех, что брести по дороге не могут,
Но их заставляют брести.

За их синеватые жесткие губы,
За одинаковость лиц,
За рваные, инеем крытые шубы,
За руки без рукавиц.

За мерку воды - за консервную банку,
Цингу, что навязла в зубах.
За зубы будящих их всех спозаранку
Раскормленных, сытых собак.

За солнце, что с неба глядит исподлобья
На то, что творится вокруг.
За снежные, белые эти надгробья,
Работу понятливых вьюг.

За пайку сырого, липучего хлеба.
Проглоченную второпях,
За бледное, слишком высокое небо,
За речку Аян-Урях!

Bản dịch tiếng Anh
I raise my glass to a road in the forest
To those who fall on their way
To those who can't drag themselves further
But are forced to drag on

To their bluish hard lips
To their identical faces
To their torn, frost-covered coats
To their hands without gloves

To the water they sip, from an old tin can
To the scurvy which sticks to their teeth
To the teeth of fattened grey dogs
Which awake them in the morning

To the sullen sun
Which regards them without interest
To the snow-white tombstones
The work of clever snowstorms

To the ration of raw, sticky bread
Swallowed quickly
To the pale, too-high sky
To the Ayan-Yuryakh river!


[1] Để ăn bớt bột, đám đầu bếp ở trại trộn nhiều nước vào bột nhào bánh mì và một số "phụ gia" khiến bánh dai, dính ướt và nặng.
[2] Tên một con sông ở vùng Magadan của nước Nga, từ tiếng dân tộc Yakut, có chiều dài khoảng 237km, là một nhánh nguồn của sông Kolyma.

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012

Những mẩu chuyện Kolyma (I)

Varlam Tikhonovich Shalamov (1907-1982) - nhà thơ, nhà văn Nga, người có những tác phẩm viết về trại cải tạo thời Sô-viết.
Bản thân ông đã có thâm niên cải tạo trong 3 đợt cả thảy khoảng 16 năm. Ông phát biểu: "Trí thức Nga, nếu chưa kinh qua trường tù ngục, chưa tích lũy kinh nghiệm ngục tù, thì chưa thật sự là trí thức Nga".
"Những mẩu chuyện Kolyma" là tập hợp những truyện ngắn về trại cải tạo được ông bắt đầu viết từ năm 1954.
Trân trọng giới thiệu với độc giả một vài mẩu chuyện, trích trong tập truyện ngắn này.


Phạm Ngọc dịch từ nguyên tác tiếng Nga.

Đường tuyết
Làm cách nào đ mở một con đường giữa mênh mông tuyết trắng không dấu chân người? Một người đi trước, mướt mồ hôi và lầm bầm chửi rủa, khó nhọc lắm mới lê nổi bước chân, cứ mỗi chốc bị níu lại trong lớp tuyết dầy và xốp. Người ấy đi thật xa, đánh dấu con đường bằng những vết lõm dấu chân đen đen không đều nhau. Người ấy mệt mỏi, nằm lăn ra tuyết, rít hơi thuốc, khói thuốc bay là là như đám mây xanh trên vùng tuyết trắng lấp lánh. Người ấy đã cất bước đi tiếp rồi mà đám mây vẫn còn lơ lửng nơi vừa nghỉ giải lao, - không khí dường như cũng đông lại. Những con đường luôn được mở vào những hôm lặng gió đ công sức con người không bị xóa sạch. Người ấy phải tự định hướng giữa mênh mông tuyết trắng: bằng mỏm vách đá, bằng ngọn cây cao, - người ấy lê tấm thân trên tuyết như bánh lái hướng con thuyền trên sông nước từ mũi đất này đến mũi đất kia.
Năm sáu người vai kề vai dàn hàng ngang đi theo dấu chân ngoằn ngoèo mở đường trên tuyết. Họ phải bước cạnh dấu chân, không được dẫm vào vết cũ. Đến một nơi định trước, họ quay đầu và đi ngược trở lại đ xéo nát một dải tuyết trắng hoang vu, cái nơi định trước ấy còn chưa hề in dấu chân người. Con đường được mở. Người ta, xe trượt tuyết, máy kéo có thể đi trên đó. Nếu theo cách dẫm vào dấu chân người đi đầu thì sẽ tạo thành một lối mòn hẹp khó đi chứ chẳng thành đường, - len từ những rãnh hẹp đ mở đường còn khó khăn hơn bước vào chỗ tuyết mới. Người đi đầu là vất vả nhất, và khi người ấy kiệt sức thì một trong năm người còn lại sẽ thay phiên. Mỗi một người đi sau, cho dù nhỏ con nhất, yếu nhất, cũng phải tự cày xới một mẩu tuyết hoang, không được dẫm vào dấu chân người khác. Còn đi trên máy kéo hay trên ngựa lúc này không phải những tác giả nữa rồi, mà là người đọc.
1956