Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

Di chúc Lenin (I)


Bài báo của Lev Trotsky có nhan đề "Di chúc Lenin" được viết vào tháng 12 năm 1932 tại Prinkipo (Thổ Nhĩ Kì) trong thời gian ông bị trục xuất khỏi Liên Sô. Đây là một bài báo chưa công bố cho đến tận năm 1990 mới được phát hiện trong hồ sơ lưu trữ của Trotsky tại Hoa Kì và được đăng tải trên tạp chí "Horizon".
Từ thời điểm bị trục xuất khỏi Liên Sô vào tháng 2-1929, Trotsky đúng là chưa hề buông bút, tiếp tục cuộc chiến đấu chống lại Stalin, người đã ra lệnh trục xuất ông. Ông xuất bản tạp chí, sách, bài đăng báo, tuyên bố, trả lời phỏng vấn, trao đổi thư từ với cộng sự tại nhiều nước trên thế giới.
Bài báo "Di chúc Lenin" cũng không ngoài thể loại quen thuộc của ông là bút chiến chính trị. Tuy nhiên nội dung bài báo không gói gọn trong di chúc Lenin. "Di chúc" mà Trotsky quyết định hồi tưởng sau 10 năm kể từ khi Lenin viết nó, chỉ là cái cớ kế tiếp để tiếp tục cuộc chiến chống lại Stalin. Vì vậy tựa đề của bài báo, trong chừng mực nhất định, chỉ là một phần nội dung của nó.
Từ ngày đầu của cuộc chiến đấu giành quyền lực giữa Trotsky và các phe nhóm khác của Bộ Chính trị, trong đó luôn có Stalin, Trotsky viện dẫn đến Lenin, mặc dù đã qua đời, nhưng được tất cả các phe nhóm đối thủ tôn sùng như một biểu tượng của chủ nghĩa bôn-sê-vich chân chính. Trotsky trung thực trong vấn đề này. Ông hoàn toàn không kém cơ sở hơn Stalin để cho rằng mình là người kế tục thứ nhất của sự nghiệp Lenin.
Vào những tháng cuối đời, Lenin thực sự đã "tha thứ" cho Trotsky về việc xa rời chủ nghĩa Lenin và thẳng thắn đề nghị Trotsky liên kết để chống lại Stalin, người có mối quan hệ xấu đi rất nhiều trong thời gian Lenin bị bệnh. Tuy nhiên, chính vào năm 1923 Lenin khi đó sắp qua đời đứng về phe Trotsky, Stalin đối phó bằng cách củng cố vị trí của mình trong bộ máy của đảng. Cuối cùng Trotsky đã bị đánh bại.
Trong quãng thời gian còn lại của đời mình, Trotsky luôn chứng minh cho tất cả mọi người, bất cứ lúc nào có thể, Stalin không phải là người theo chủ nghĩa Lenin chân chính, mà chính là ông - Trotsky. Không thể bác bỏ sự đúng đắn của ông trong tuyên bố này, tuy nhiên chỉ đúng một nửa: Stalin cũng là người bôn-sê-vich kế tục ở mức độ không kém Trotsky. Họ là những người kế tục theo những cách khác nhau: Trotsky dựa trên giáo điều, lí thuyết cách mạng, còn Stalin dựa trên thực lực và quyền lực...

Phạm Ngọc dịch từ tiếng Nga.

Trotsky tại Prinkipo 1929

Trường phái tâm lí thuần túy
Thời kì hậu chiến đã phổ biến lối viết tiểu sử nhân vật theo kiểu phân tâm học mà các tác giả thể loại này thường hoàn toàn lí giải từ xã hội. Sự trừu tượng của cá nhân hóa ra là động lực cơ bản của lịch sử. Sự nghiệp của một "động vật chính trị", như Aristotle[1] đã định nghĩa con người một cách thiên tài, bao gồm những ham muốn và bản năng cá nhân.
Những từ ngữ về một cá nhân trừu tượng có thể được thể hiện bằng sự phi lí. Phải chăng sức mạnh vượt lên trên cá nhân của lịch sử không phải là trừu tượng trong thực tế? Và điều gì có thể cụ thể hơn một con người sống? Tuy nhiên, chúng ta cứ nằng nặc theo ý mình. Nếu như gột sạch một cá nhân, kể cả xuất chúng nhất, khỏi cái nội hàm đem lại cho nó bởi môi trường, dân tộc, thời đại, giai cấp, phe nhóm, gia đình, thì nó chỉ còn là một cái máy tự động trống rỗng, một con rô bốt tâm-vật lí, một đối tượng của khoa học tự nhiên chứ không phải khoa học xã hội và nhân văn.
Những nguyên nhân tách rời khỏi lịch sử và xã hội, bao giờ cũng thế, cần phải tìm kiếm trong lịch sử và xã hội. Hai thập kỉ chiến tranh, cách mạng và khủng hoảng đã bào mòn mạnh mẽ cá nhân con người tự chủ. Điều gì muốn đạt được ý nghĩa trong cán cân lịch sử hiện đại phải được đo bằng con số không ít hơn 7 chữ số. Cá nhân bị xúc phạm sẽ tìm cách phục hận.
Không biết nó xoay xở nổi với cái xã hội được tháo dây cương như thế nào, song nó quay lưng lại với xã hội. Không đủ năng lực diễn giải bản thân qua quá trình lịch sử, nó toan diễn giải lịch sử từ bên trong bản thân.
Đó là cách những triết gia Ấn Độ đã xây dựng những hệ thống toàn năng trong khi quán tưởng vào đan điền[2] của mình.
Ảnh hưởng của Freud[3] lên trường phái viết tiểu sử mới không có gì phải bàn cãi, nhưng chỉ mang tính bề mặt. Về bản chất, những nhà tâm lí học sa-lông có khuynh hướng thiên về thiếu trách nhiệm một cách hư cấu. Họ sử dụng không hẳn phương pháp của Freud mà là nhiều thuật ngữ của Freud, không hẳn cho mục đích phân tích mà là để tô điểm văn chương.
Trong những tác phẩm sau cùng của mình, Emil Ludwig[4], một đại diện nổi tiếng nhất của thể loại này, đã tiến một bước mới trên con đường đã chọn: nghiên cứu thân thế và sự nghiệp của nhân vật mà ông phỏng vấn. Bằng những câu trả lời của chính khách cho những câu hỏi ông đặt ra, bằng sự nhấn nhá và điệu bộ của mình, nhà văn mở ra sự khêu gợi thực sự. Cuộc trò chuyện hầu như trở thành lời xưng tội.
Về mặt kĩ thuật, cách tiếp cận của Ludwig với nhân vật tương tự như Freud với bệnh nhân: chuyện là làm thế nào để bóc trần cá nhân đó với sự hợp tác của chính nó. Tuy nhiên trong cái vẻ giống nhau ở bề ngoài, về mặt bản chất thì khác nhau xa! Thành quả công trình của Freud đạt được bằng giá trị sự đoạn tuyệt của nhân vật với mọi ước lệ. Nhà phân tâm học vĩ đại thẳng tay không thương xót. Trong công việc ông giống như nhà phẫu thuật, thậm chí như một anh hàng thịt với tay áo xăn lên. Gì thì gì, chứ trong kĩ thuật của ông không hề có chút xã giao, dù chỉ một phần trăm. Uy tín, phong thái đĩnh đạc, vẻ giả dối và hào nhoáng của bệnh nhân là những điều Freud ít quan tâm hơn cả. Chính vì thế ông có thể dẫn dắt cuộc trò chuyện của mình không thể nào khác hơn là câu chuyện rất riêng tư, không có thư kí và tốc kí, đằng sau cánh cửa bọc nỉ.
Ludwig lại là chuyện khác. Ông trò chuyện với Mussolini hay với Stalin, để giới thiệu với thế giới chân dung đích thực của tâm hồn họ. Nhưng cuộc trò chuyện được tiến hành theo một kịch bản thỏa thuận trước. Mỗi lời đều được tốc kí lại. Những bệnh nhân có địa vị cao hiểu khá rõ điều gì có thể phục vụ lợi ích của họ, điều gì có hại. Nhà văn đủ kinh nghiệm để phân biệt những mánh lới của mĩ từ sáo rỗng, và đủ tính toán để không bận tâm đến chúng. Cuộc trò chuyện được tiến hành trong điều kiện đó, nếu có giống như lời xưng tội, thì cũng giống như được dựng sẵn cho một bộ phim có lời.
Emil Ludwig luôn tận dụng mỗi một cơ hội để tuyên bố: "Tôi không biết gì về chính trị". Điều đó phải có nghĩa: tôi đứng trên chính trị. Thực tế, đó chỉ là hình thức của trung lập chuyên nghiệp, hay nói theo cách vay mượn từ Freud, đó là sự kiểm duyệt nội tại, khiến nhà tâm lí yên tâm khỏi chức năng chính trị. Đó là cách các nhà ngoại giao không can thiệp vào sinh hoạt bên trong một đất nước mà họ được ủy nhiệm làm đại diện, tuy thế, điều gì không cản trở họ trong trường hợp ủng hộ những âm mưu và tài trợ cho các hoạt động khủng bố.
Một và chỉ một con người trong những điều kiện khác nhau sẽ phát triển những khía cạnh khác nhau của tính cách cá nhân. Có bao nhiêu Aristotle chăn heo và có bao nhiêu kẻ chăn heo đội vương miện trên đầu! Trong khi đó, Ludwig thậm chí chẳng khó khăn gì hòa lẫn mâu thuẫn giữa chủ nghĩa bôn-sê-vich và chủ nghĩa phát-xít vào tâm lí một cá nhân. "Trung lập" có khuynh hướng biết chừng nào không thể đi qua mà không bị trừng phạt, kể cả đối với nhà tâm lí sắc sảo nhất. Cắt đứt với tính ước định xã hội của ý thức con người, anh ta bước vào vương quốc của võ đoán chủ quan. "Tâm hồn" không có ba chiều, và vì thế, không có khả năng phản kháng như vốn có ở các vật liệu khác. Nhà văn đánh mất hứng thú nghiên cứu sự kiện và tài liệu. Tính xác thực nhạt nhẽo để làm gì khi có thể thay thế bằng sự phỏng đoán rực rỡ?
Trong tác phẩm về Stalin, cũng như sách viết về Mussolini, Ludwig đứng ngoài "chính trị". Điều đó chẳng cản trở các tác phẩm của ông là vũ khí chính trị chút nào. Của ai? Trong một trường hợp - của Mussolini, còn trong trường hợp khác - của Stalin và băng nhóm của ông ta. Tự nhiên không chịu đựng được sự trống rỗng. Nếu Ludwig không làm chính trị, không có nghĩa là, chính trị không "làm" Ludwig. Vào thời điểm ra đời "Tự truyện"[5] của tôi, gần 3 năm trước đây, Pokrovsky, một nhà sử học Sô-viết chính thống, nay đã qua đời, đã viết: cần thiết phải nhanh chóng đáp lại cuốn sách này, huy động các nhà khoa học trẻ vào công việc, phản bác tất cả những gì cần phải phản bác, v.v... Nhưng thật lạ lùng: không ai đáp lại, hoàn toàn không một ai, không một điều gì bị xem xét lại, bị phản bác. Chẳng phản bác điều gì và cũng chẳng ai viết cuốn sách nào hầu tìm được người đọc.
Không đủ khả năng tấn công trực diện, người ta dùng lối đánh thọc sườn. Tất nhiên, Ludwig không phải nhà sử học thuộc trường phái Stalin. Song chính qua một nhà văn xa lạ với chính trị, đôi khi lại thuận tiện nhất để phổ biến những tư tưởng không còn cách nhấn mạnh nào khác, ngoài cách thông qua một cái tên nổi tiếng. Bây giờ chúng ta hãy xem điều này trên thực tế trông ra làm sao.


Chú thích của người dịch:
[1] Aristotle (384-322 trước CN) - triết gia Hi Lạp cổ đại, được xem là người sáng lập môn luận lí học. (Tất cả ghi chú đều của ND)
[2] Nguyên văn là "nhìn chăm chú vào cái rốn của mình". Ở đây, có lẽ tác giả hơi nhầm: dẫn khí về đan điền (khí thủ đan điền) là căn bản của khí công, không phải của yoga Ấn Độ.
[3] Sigmund Schlomo Freud (1856-1939), nguyên là một bác sĩ về thần kinh và tâm lí người Áo, nhà phân tâm học vĩ đại của thế kỉ XX, được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học.
[4] Emil Ludwig (1881-1948), nhà văn - nhà báo Đức gốc Do Thái, nổi tiếng về thể loại tiểu sử nhân vật.
[5] Tiểu sử tự thuật của Trotsky "Đời tôi" 2 tập, Nxb Granit, Berlin 1930.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét