Báo cáo của Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung
ương (BCHTW) Đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), Nikita Sergeyevich Khrushyov tại
phiên họp kín đại hội ĐCSLX lần thứ XX ngày 25 tháng Hai năm 1956.
Phạm Ngọc dịch từ tiếng Nga
Về tệ sùng bái cá nhân và
những hậu quả của nó (tt)
Thưa các đồng chí! Chúng ta hãy đề cập đến một vài
sự kiện khác. Liên Xô thật sự được xem là mẫu mực của một quốc gia nhiều dân
tộc, vì trong thực tế chúng ta đảm bảo bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc
chung sống trên lãnh thổ rộng lớn của tổ quốc.
Như thế, những hành động do Stalin đề xướng vi phạm
trắng trợn những nguyên tắc Lê-nin-nit căn bản về chính sách dân tộc của nhà
nước Liên Xô, thật đáng công phẫn biết nhường nào! Câu chuyện là về việc đày ải
hàng loạt các dân tộc khỏi mảnh đất quê hương của họ, trong số đó có cả những
người cộng sản, những đoàn viên thanh niên cộng sản, không chừa một ai. Không
một luận điểm quân sự nào có thể biện minh cho sự đày ải loại này.
Cuối năm 1943, khi trên khắp các mặt trận của cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã xác định một cách chắc chắn kết cục cuộc chiến
đang nghiêng về phía Liên Xô, một nghị quyết được thông qua về việc di dân
Karachai khỏi mảnh đất họ đang cư trú. Vào thời kì đó, cuối tháng 12-1943, dân
chúng nước cộng hòa tự trị Kalmyk cũng chịu chung số phận. Tháng 3-1944, dân Chechen và Ingush bị xua đuổi khỏi mảnh đất họ đang sống, còn nước cộng hòa tự
trị Chechen-Ingush bị giải tán. Tháng 4-1944, dân Balkar bị đuổi khỏi lãnh thổ
nước cộng hòa tự trị Kabardino-Balkar đến các vùng xa khác, bản thân nước cộng
hòa này bị đổi tên thành cộng hòa tự trị Kabardin. Dân Ukraina thoát được số
phận trên bởi họ quá đông nên không biết đưa đi đâu. Nếu không thì họ cũng bị
đi đày hết rồi. (Cười lớn và xôn xao trong phòng.)
Trong ý thức không chỉ của những người Mac-xit
Lê-nin-nit, mà bất cứ ai có chút suy nghĩ lành mạnh cũng không thể giải thích
nổi sao lại có thể đổ trách nhiệm về hành động thù địch của một số người riêng
lẻ hay một nhóm người lên đầu cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ em, người già,
đảng viên cộng sản, đoàn viên thanh niên cộng sản, và áp dụng đàn áp hàng loạt,
tước đoạt và gây đau khổ cho họ.
Sau khi chiến tranh vệ quốc kết thúc, nhân dân
Xô-viết với niềm tự hào kỉ niệm chiến thắng vinh quang, đạt được bằng sự hi
sinh vô bờ bến và những nỗ lực vô cùng to lớn. Cả nước như sống trong một cơn
sảng khoái chính trị. Đảng ta sau chiến tranh lại càng đoàn kết hơn trước,
trong ngọn lửa chiến tranh đội ngũ cán bộ đảng đã được tôi luyện. Trong những
điều kiện như thế, làm sao trong đầu óc của một ai đó trong đảng lại có thể nảy
sinh ý nghĩ về một âm mưu gì.
Và chính trong thời kì này bỗng nhiên cái gọi là
"vụ án Leningrad" đã phát sinh. Ngày nay đã chứng tỏ được vụ án là
hoàn toàn ngụy tạo. Các đồng chí bị sát hại một cách oan uổng gồm có
Voznesensky, Kuznetsov, Rodionov, Popkov và nhiều người khác.
Được biết, Voznesensky và Kuznetsov là những cán bộ
ưu tú và tài ba. Họ đã có thời gần gũi với Stalin. Đủ cơ sở để nói Stalin đã
cất nhắc Voznesensky vào cương vị phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng, còn
Kuznetsov được bầu làm bí thư BCHTW. Nội việc Stalin ủy nhiệm Kuznetsov giám
sát các cơ quan an ninh quốc gia đủ nói lên Kuznetsov được tin tưởng đến mức
nào.
Sao có thể xảy ra chuyện những người này bị tuyên
bố là kẻ thù của nhân dân và bị thủ tiêu?
Những sự kiện đã cho thấy "vụ án
Leningrad" là biểu hiện của sự chuyên quyền mà Stalin đối với các cán bộ
đảng.
Nếu như trong BCHTW và Bộ Chính trị tình hình diễn
ra bình thường thì những vấn đề tương tự đã được bàn bạc theo quy định và mọi
sự kiện đều được cân nhắc, và vụ này, cũng như các vụ tương tự, đã không thể
nào xảy ra được.
Cần phải nói thời kì sau chiến tranh, tình hình
ngày càng phức tạp. Stalin ngày càng thất thường hơn, nóng nảy hơn, thô bạo
hơn; đặc biệt tính đa nghi ngày càng gia tăng. Bệnh săn đuổi cuồng bạo đã đạt
tới mức không thể tưởng tượng nổi. Nhiều cộng sự đã trở thành kẻ thù trong mắt
Stalin. Sau chiến tranh, Stalin ngày càng tách rời tập thể, một mình định đoạt
mọi việc, không để ý đến một ai hoặc một sự kiện nào cả.
Tính đa nghi không thể tưởng tượng nổi của Stalin
đã được một tên khiêu khích đê tiện, một kẻ thù hèn hạ lợi dụng một cách khéo
léo, đó là Beria, kẻ đã sát hại hàng ngàn người cộng sản và thường dân Xô-viết
trung thực. Sự thăng tiến của Voznesensky và Kuznetsov khiến Beria lo ngại.
Hiện nay đã xác định chính Beria đã "ném đá giấu tay", y và đồng bọn
đã dựng lên những tài liệu dưới hình thức đơn tố cáo, thư nặc danh cùng mọi thứ
đồn thổi và đơm đặt khác để trình lên Stalin.
BCHTW đã kiểm tra vụ án có tên gọi "vụ án
Leningrad", những người vô tội chịu đau khổ đã được minh oan và phục hồi
danh dự, danh dự của tổ chức đảng Leningrad được phục hồi. Những kẻ làm giả vụ
án như Abakumov và bè lũ bị đưa ra tòa án, chúng bị xét xử tại Leningrad và đã
đền tội một cách đích đáng.
Xuất hiện câu hỏi: tại sao đến giờ chúng ta mới
vạch trần được vụ việc, mà không phải trước kia, lúc sinh thời Stalin, để ngăn
cản việc những người vô tội bị giết hại? Bởi vì Stalin đã đích thân lưu tâm đến
"vụ án Leningrad" và đa số ủy viên Bộ Chính trị khi đó không biết chi
tiết của vụ này, đương nhiên, họ không thể can thiệp.
Khi Stalin nhận được những tài liệu do Beria và
Abakumov chuyển đến, đồng chí không hề xem xét bản chất những hồ sơ giả mạo mà
lập tức ra chỉ thị điều tra "vụ án" của Voznesensky và Kuznetsov.
Điều này đã định đoạt số phận của họ.
Vụ án tổ chức dân tộc Mingrelian, chừng như hoạt
động ở Gruzia, cũng là một vụ đáng để học tập. Như đã biết, nghị quyết về vụ
này đã được BCHTW ĐCSLX thông qua hồi tháng 11-1951 và tháng 3-1952, nhưng
không hề được thảo luận trước ở Bộ Chính trị. Stalin đã đích thân đọc cho người
ta viết những nghị quyết ấy. Trong đó đã buộc tội rất nặng nề nhiều đảng viên
cộng sản trung kiên. Trên cơ sở những tài liệu được đưa ra, người ta khẳng định
tại Gruzia chừng như tồn tại một tổ chức dân tộc đặt mục tiêu là xóa bỏ chính
quyền Xô-viết ở nước cộng hòa với sự viện trợ của các nước đế quốc.
Hệ lụy là hàng loạt cán bộ lãnh đạo đảng và nhà
nước Gruzia bị bắt giam. Sau này mới xác định đây chỉ là chuyện vu khống nhằm
vào các tổ chức đảng Gruzia.
Chúng ta biết ở Gruzia, cũng như tại nhiều nước
cộng hòa khác, có những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản địa phương. Xuất
hiện câu hỏi, có thể, thực tế vào thời kì khi những nghị quyết nói trên được
thông qua, những khuynh hướng dân tộc có phát triển đến mức trở thành mối đe
dọa khiến Gruzia tách ra khỏi Liên bang Xô-viết và sáp nhập với Thổ Nhĩ Kì? (Ồn
ào và cười lớn trong phòng họp.)
Tất nhiên, toàn là chuyện nhảm nhí. Khó mà tưởng
tượng nổi những đề xuất tương tự như thế lại có thể chui vào đầu được. Ai cũng
biết Gruzia đã phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế và văn hóa dưới chế độ
Xô-viết.
Sản lượng công nghiệp của cộng hòa Gruzia đã tăng
gấp 27 lần so với thời kì trước cách mạng. Tại nước cộng hòa đã thiết lập nhiều
ngành công nghiệp chưa có trước cách mạng như luyện kim đen, công nghiệp dầu
khí, chế tạo máy, v.v... Nạn mù chữ đã được thanh toán từ lâu, trong khi trước
cách mạng tỉ lệ này là 78% dân số.
So sánh tình hình trong nước cộng hòa của mình với
tình trạng trì trệ của nhân dân lao động Thổ Nhĩ Kì, có thể nào người dân
Gruzia phấn đấu để hợp nhất với Thổ Nhĩ Kì hay không? Tại Thổ Nhĩ Kì vào năm
1955, sản lượng thép tính theo đầu người nhỏ hơn của Gruzia 18 lần. Tại Gruzia,
sản lượng điện năng tính theo đầu người nhiều gấp 9 lần Thổ Nhĩ Kì. Theo số
liệu thống kê năm 1950, tỉ lệ mù chữ ở Thổ Nhĩ Kì là 65% dân số, tỉ lệ này lên
đến 80% ở phụ nữ. Tại Gruzia có 19 trường đại học và cao đẳng với 39 ngàn sinh
viên, nghĩa là nhiều gấp 8 lần Thổ Nhĩ Kì (tính trên một ngàn nhân khẩu). Tại
Gruzia trong những năm dưới chế độ Xô-viết đời sống vật chất của nhân dân lao
động được nâng cao chưa từng thấy.
Hiển nhiên, cùng với nhịp độ phát triển kinh tế và
văn hóa tại Gruzia, sự giác ngộ chủ nghĩa xã hội của nhân dân lao động được
nâng cao, đất sống cho chủ nghĩa dân tộc tư sản teo dần và biến mất.
Và thực tế cho thấy, chẳng có một tổ chức dân tộc
nào ở Gruzia cả. Hàng ngàn người Xô-viết vô tội đã trở thành nạn nhân của sự
chuyên quyền và coi thường pháp luật. Và tất cả những điều này được thực hiện
dưới sự lãnh đạo "thiên tài" của Stalin - "người con vĩ đại của
dân tộc Gruzia", như dân chúng Gruzia vẫn yêu mến gọi người đồng hương vĩ
đại của mình. (Xôn xao trong phòng họp.)
Sự chuyên quyền của Stalin đã bộc lộ không những
trong các quyết định về vấn đề sinh hoạt nội bộ của đất nước, mà còn trong những
lĩnh vực quan hệ quốc tế của Liên Xô.
Tại hội nghị toàn thể BCHTW vào tháng Bảy đã thảo
luận cặn kẽ những nguyên nhân gây ra xung đột với Nam Tư. Trong đó, dễ nhận
thấy vai trò vô lí của Stalin. Trong "vụ Nam Tư" không có vấn đề nào
không thể giải quyết được bằng thảo luận mang tính đảng giữa các đồng chí với
nhau. "Vụ" này phát sinh không vì một nguyên cớ nào nghiệm trọng,
hoàn toàn có khả năng tránh cắt đứt quan hệ với nước này. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là các lãnh tụ Nam Tư không phạm sai lầm hay thiếu sót. Nhưng
những sai lầm và thiếu sót đó đã được Stalin cường điệu lên một cách quái đản,
đã dẫn đến cắt đứt quan hệ với một nước anh em.
Tôi còn nhớ những ngày đầu khi xung đột giữa Liên
Xô và Nam Tư bắt đầu được thổi phồng một cách có dụng ý.
Một lần từ Kiev về Moskva, tôi được Stalin mời đến
gặp, chỉ vào bản sao bức thư sắp sửa gửi cho Tito, Stalin hỏi:
- Đồng chí đọc chưa?
Rồi không đợi câu trả lời, đồng chí nói:
- Tôi chỉ cần nhúc nhích ngón tay út là Tito sẽ
không còn. Hắn sẽ đổ...
Chúng ta đã phải trả giá đắt cho việc "nhúc
nhích ngón tay út". Lời tuyên bố này phản ánh bệnh vĩ cuồng của Stalin, và
đồng chí vẫn luôn làm thế: nhúc nhích ngón tay út - Kosior không còn, nhúc
nhích ngón tay út lần nữa - Postyshev, Chubar cũng không còn, nhúc nhích ngón
tay út thêm một lần - Voznesensky, Kuznetsov và nhiều người khác nữa đều biến
mất.
Nhưng chẳng có gì xảy ra với Tito. Stalin ra sức
nhúc nhích chẳng những mỗi ngón tay út mà còn mọi thứ khác có thể, Tito vẫn
không đổ. Vì sao? Bởi vì trong xung đột với các đồng chí Nam Tư, sau lưng Tito
còn có cả một nhà nước, một dân tộc đã trải qua trường chiến đấu cam go để
giành được tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ những lãnh tụ của họ.
Đấy bệnh vĩ cuồng của Stalin đã dẫn tới đâu. Đồng
chí hoàn toàn mất cảm giác thực tế, bộc lộ tính ngờ vực, trịch thượng không
những đối với những cá nhân riêng lẻ trong nước, mà còn đối với các đảng và các
nước khác nữa.
Hiện nay, chúng tôi đã nghiên cứu kĩ lưỡng vấn đề
Nam Tư và tìm ra giải pháp đúng đắn, được các dân tộc Liên Xô và Nam Tư ủng hộ,
quần chúng lao động các nước dân chủ nhân dân và nhân loại tiến bộ hoan nghênh.
Việc xóa bỏ quan hệ bất thường với Nam Tư được thực hiện tôn trọng quyền lợi
của phe xã hội chủ nghĩa và vì lợi ích củng cố nền hòa bình thế giới.
Cần nhắc lại "vụ án các bác sĩ đầu độc".
(Xôn xao trong phòng họp.) Thật ra, chẳng có "vụ án" nào ở đây cả,
ngoài đơn tố cáo của bác sĩ Timashuk (bà ta là cộng tác viên không chính thức
của cơ quan an ninh quốc gia), có khả năng do ai đó xúi bẩy hoặc chỉ thị, đã
viết thư cho Stalin, trong đó tố cáo các bác sĩ chừng như sử dụng những phương
pháp điều trị không đúng đắn.
Chỉ một bức thư như thế cũng quá đủ với Stalin,
đồng chí rút ra ngay kết luận ở Liên Xô có những bác sĩ chuyên đầu độc, và ra
chỉ thị bắt giam một nhóm chuyên gia y tế lừng danh. Đồng chí còn đích thân ra
chỉ thị về cách thức điều tra cũng như hỏi cung những người bị bắt. Stalin bảo
phải cùm viện sĩ Vinogradov bằng xích sắt và tra tấn. Đồng chí Ignatiev, cựu bộ
trưởng an ninh quốc gia, đang có mặt ở đây với tư cách đại biểu đại hội. Stalin
đã tuyên bố thẳng thừng với đồng chí:
- Nếu không khai thác được lời thú tội của bọn bác
sĩ, cái đầu đồng chí sẽ không còn trên cổ. (Xôn xao phẫn nộ trong phòng họp).
Stalin đích thân gọi cán bộ điều tra đến để hướng
dẫn và chỉ đạo phương pháp điều tra, phương pháp đơn giản và duy nhất: đánh,
đánh nữa, đánh mãi.
Ít lâu sau khi các bác sĩ bị bắt, chúng tôi, những
ủy viên Bộ Chính trị, nhận được những biên bản ghi lời thú tội của các bác sĩ.
Sau khi phát những biên bản đó, Stalin bảo chúng tôi:
- Các đồng chí mù lòa như lũ mèo con chưa mở mắt, nếu
như không có tôi, có khi đất nước bị diệt vong rồi, chỉ vì các đồng chí không
nhận biết được kẻ thù.
Vụ này được bố trí để không ai có khả năng kiểm tra
được những sự kiện làm căn cứ để tiến hành điều tra. Cũng không có khả năng
kiểm tra bằng cách tiếp xúc với những người đã thú nhận tội lỗi của họ.
Nhưng chúng tôi có cảm giác vụ bắt giam các bác sĩ
không được sạch sẽ. Chúng tôi biết nhiều người trong số đó vì họ đã chữa bệnh
cho chúng tôi. Sau khi Stalin chết, chúng tôi xem xét lại "hồ sơ" đã
được lập như thế nào, và thấy rõ là giả dối từ đầu chí cuối.
Stalin đã dựng lên "vụ án" ô nhục này,
nhưng chưa kịp làm đến cùng (theo cách hiểu của đồng chí ấy), và vì thế các bác
sĩ mới còn sống sót. Hiện nay họ đã được minh oan, phục hồi danh dự, và trở lại
công tác trên cương vị như trước kia, chữa trị cho cán bộ lãnh đạo, kể cả thành
viên chính phủ. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng họ, và họ thực hiện bổn phận của
mình một cách lương thiện, cũng như trước kia.
Beria, kẻ chiếm được lòng tin của Stalin, tay sai
của gián điệp nước ngoài, kẻ thù cực kì phản động của đảng ta, đã đóng vai trò
đê tiện trong việc dàn dựng các loại vụ việc dơ bẩn và nhục nhã. Tên nội gián
ấy làm thế nào mà có thể đạt được địa vị trong đảng và nhà nước, để rồi trở
thành phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng Liên Xô và ủy viên Bộ Chính trị
BCHTW? Hiện nay đã xác định tên đốn mạt này đã bước qua biết bao nhiêu xác chết
để leo lên những nấc thang chính quyền.
Có những dấu hiệu nào về việc Beria là kẻ thù của
đảng? Vâng, có. Ngay từ năm 1937 tại hội nghị toàn thể BCHTW, cựu ủy viện đặc
trách y tế Kaminsky đã phát biểu Beria làm việc cho tổ chức phản gián Mussavat.
Hội nghị toàn thể BCHTW chưa kịp kết thúc thì Kaminsky đã bị bắt và sau đó bị
xử bắn. Stalin có kiểm tra lại tuyên bố của Kaminsky không? Không, vì Stalin
tin tưởng Beria và với Stalin thế là quá đủ. Một khi Stalin đã tin như thế,
không ai có thể phát biểu ngược lại ý kiến đồng chí; ai nghĩ đến chuyện phản
đối, kẻ ấy sẽ chịu chung số phận như Kaminsky.
Còn những dấu hiệu khác nữa. Đáng chú ý hơn cả là
đơn của đồng chí Snegov gửi BCHTW (nhân tiện nói thêm là cách đây không lâu
Snegov đã được phục hồi danh dự sau 17 năm trong trại cải tạo). Trong đơn đồng
chí viết như sau:
"Liên
quan đến dự định phục hồi danh dự cho đồng chí Kartvelishvili-Lavrentyev, cựu
ủy viên BCHTW, tôi đã trao cho đại diện KGB một bản khai chi tiết về vai trò
của Beria trong việc thanh trừng Kartvelishvili và những nguyên cớ tội lỗi đã
dẫn dắt Beria trong việc này.
Tôi
nhận thấy cần phải khôi phục lại sự kiện quan trọng trong vấn đề này và báo cáo
BCHTW, vì tôi thấy không tiện đưa dữ kiện này vào hồ sơ điều tra.
Ngày
30-10-1931, tại cuộc họp của Ban tổ chức trung ương ĐCSLX, đồng chí
Kartvelishivili, bí thư ủy ban liên tỉnh Zakavkaz đọc bản báo cáo. Tất cả ủy
viên ban chấp hành liên tỉnh đều có mặt, trong đó có tôi còn sống sót. Tại cuộc
họp này, cuối bài diễn văn, Stalin đề nghị tổ chức lại ban bí thư của ủy ban
liên tỉnh Zakavkaz với thành phần: bí thư thú nhất Kartvelishivili, bí thư thứ
hai Beria (đây là lần đầu tiên trong lịch sử đảng, cái tên Beria được đưa ra
ứng cử một chức vụ trong đảng), ngay lúc đó Kartvelishivili phản ứng lại là
đồngchí đã biết rõ Beria và vì thế, dứt khoát từ chối cộng tác với Beria. Khi
đó, Stalin đề nghị để ngỏ vấn đề này và sẽ quyết định sau trong quá trình làm
việc. Hai ngày sau có quyết định cử Beria giữ chức vụ trong đảng, còn
Kartvelishivili bị thuyên chuyển khỏi vùng Zakavkaz.
Các
đồng chí Mikoyan A. I. và Kaganovich L. M. tham dự phiên họp này và có thể chứng
thực điều đó.
Nhiều
người đều biết quan hệ thù địch giữa Kartvelishivili và Beria kéo dài trong
nhiều năm; phát sinh từ thời đồng chí Sergo (bí danh của Orjonikidze) còn công
tác ở Zakavkaze, khi Kartvelishivili là cộng sự gần gũi nhất của Sergo. Điều đó
thúc đẩy Beria làm giả "hồ sơ" chống lại Kartvelishivili.
Điều
đặc trưng là theo "hồ sơ" này, Kartvelishivili bị cáo buộc có hành
động khủng bố nhằm ám hại Beria".
Trong bản cáo trạng vụ án Beria đã trình bày rất
chi tiết những tội ác của y. Tuy nhiên, cũng nên nói riêng vài sự việc, vì có
khả năng không phải tất cả đại biểu đại hội đã đọc tài liệu này. Ở đây tôi muốn
nói đến vụ thanh trừng thú vật của Beria đối với Kedrov, Golubiov và bà
Baturina, mẹ nuôi của Golubiov, những người có ý định báo cho BCHTW về hoạt
động phản bội của Beria. Họ đều bị xử bắn không cần xét xử, và bản án chỉ được
lập sau khi họ bị hành quyết và ghi lùi ngày tháng lại. Đây là những gì đồng
chí cộng sản lão thành Kedrov đã viết cho BCHTW, qua đồng chí Andreyev (lúc đó
là bí thư BCHTW):
"Từ xà
lim tối tăm của nhà tù Lefortovo, tôi cầu cứu các đồng chí. Nghe được tiếng
thét hãi hùng, các đồng chí sẽ chẳng làm ngơ, hãy hành động, hãy giúp tôi chấm
dứt cơn ác mộng của các vụ hỏi cung và chỉ ra sai lầm.
Tôi bị
oan. Xin hãy tin. Thời gian sẽ chứng minh. Tôi không phải là một phần tử khiêu
khích thuộc đội cận vệ Sa hoàng, không phải gián điệp, không phải thành viên
của tổ chức chống phá Sô-viết, như người ta buộc tội dựa trên những đơn vu
khống. Và tôi không thực hiện bất cứ một tội ác nào với đảng và tổ quốc. Tôi là
một đảng viên bôn-sê-vich cựu trào trong sạch, gần bốn mươi năm liên tục trong
hàng ngũ của đảng chiến đấu trung thực vì sự phồn vinh và hạnh phúc của nhân
dân.
...
Tôi giờ đây, một ông già 62 tuổi, đang bị an ninh điều tra đe dọa dùng những
biện pháp nhục hình ngày càng ác liệt, tàn bạo và nhục nhã hơn. Họ không đủ khả
năng nhìn nhận sai lầm của mình và công nhận những hành vi trái pháp luật và
không được phép mà họ đã áp dụng đối với tôi. Họ cố biện minh cho hành động của
mình bằng cách coi tôi như một kẻ thù ngoan cố và tàn bạo, và đòi hỏi tăng
cường biện pháp tra tấn. Nhưng hãy để đảng biết tôi là người vô tội và không
thế lực nào có thể biến một đứa con trung thành với đảng đến hơi thở cuối cùng
lại trở thành kẻ thù của đảng.
Nhưng
tôi chẳng còn lối thoát. Tôi hoàn toàn bất lực trước những đòn tra tấn ngày
càng mới và dữ dội hơn.
Tuy
nhiên, mọi thứ đều có giới hạn. Tôi đã kiệt quệ. Sức khỏe suy sụp, năng lực cạn
kiệt, đời tôi sắp tàn. Chết trong nhà tù Xô-viết với cái nhãn hiệu kẻ phản bội
tổ quốc đáng khinh bỉ - thử hỏi còn gì khủng khiếp hơn với một con người trung
thực. Đáng sợ làm sao! Nỗi đau và niềm cay đắng vô bờ bến bóp nghẹt tim tôi.
Không, không! Không thể như thế, không được như thế, tôi phải thét lên. Đảng,
chính phủ Xô-viết và ủy viên L. P. Beria không thể cho phép xảy ra bất công ác
độc không thể sửa chữa như thế được!
Tôi
tin chắc rằng nếu điều tra bình tĩnh, công bằng, không có những lời xỉ vả bỉ ổi,
không phẫn nộ, không nhạo báng ghê tởm, tính vô căn cứ của những lời buộc tội
dễ dàng xác định. Tôi tin tưởng sâu sắc là sự thật và công lí sẽ chiến thắng.
Tôi tin tưởng, tin tưởng như thế".
Đảng viên bôn-sê-vich lão thành, đồng chí Kedrov đã
được tòa án quân sự công nhận là vô tội. Nhưng, bất chấp điều đó, đồng chí vẫn
bị xử bắn theo lệnh của Beria. (Phẫn nộ trong phòng họp.)
Beria còn thanh trừng tàn ác với gia đình đồng chí
Orjonikidze. Vì sao? Vì Orjonikidze đã ngăn cản Beria thực hiện những ý đồ đê tiện
của y. Beria muốn gạt bỏ tất cả những ai có thể là trở ngại trên đường của hắn.
Orjonikidze luôn luôn là địch thủ của Beria và đồng chí cũng nói thẳng điều ấy
với Stalin. Thay vì phải xem xét và có biện pháp cần thiết thì Stalin lại để
mặc cho người em của Orjonikidze bị thủ tiêu, còn bản thân Orjonikidze lâm vào
tình trạng khiến cuối cùng đồng chí phải tự vẫn. (Phẫn nộ trong phòng họp.)
Beria là con người như thế đó!
Beria đã bị BCHTW vạch mặt ngay sau khi Stalin
chết. Kết quả của quá trình điều tra tố tụng kĩ lưỡng đã xác định những tội ác
man rợ của Beria, và y đã bị xử bắn.
Vấn đề là vì sao Beria, người đã thủ tiêu hàng vạn
cán bộ của đảng và của Xô-viết, lúc sinh thời Stalin lại không bị vạch mặt? Sở
dĩ Beria không bị lột mặt nạ sớm vì y biết lợi dụng rất khéo léo những điểm yếu
của Stalin, khêu gợi tính đa nghi của Stalin, cúc cung tận tụy phục vụ Stalin
và được Stalin ủng hộ.
Thưa các đồng chí!
Tệ sùng bái cá nhân sở dĩ đạt đến mức độ quái dị
như vậy là vì chính Stalin đã luôn khuyến khích và ủng hộ sự phóng đại con
người của mình. Điều này đã được vô số sự kiện chứng minh. Một trong những biểu
hiện tiêu biểu nhất của sự tôn thờ bản thân và thiếu khiêm tốn một cách cơ bản
của Stalin là cuốn "Tiểu sử tóm lược" ấn hành vào năm 1948.
Cuốn sách này là sự thể hiện thứ xu nịnh không kiềm
chế nổi, là hình mẫu của việc thần thánh hóa con người, biến con người thành
một hiền nhân không thể sai lầm, một "lãnh tụ vĩ đại nhất", một
"nhà cầm quân vô song của mọi thời đại và mọi dân tộc". Chẳng còn tìm
nổi từ nào khác để tâng bốc vai trò của Stalin.
Chẳng cần trích dẫn những lời xu nịnh đến buồn nôn,
chồng chất lên nhau trong cuốn sách. Chỉ cần nhấn mạnh một điều là tất cả những
thứ ấy đã được chính Stalin chấp thuận và biên tập, thậm chí còn tự tay bổ sung
vào bản in thử cuốn sách.
Điều gì Stalin cho là mấu chốt nhất trong cuốn
sách? Có lẽ, đồng chí cố gắng hạ nhiệt ngọn lửa xu nịnh của những kẻ biên soạn
cuốn "Tiểu sử tóm lược" ấy? Không. Stalin đã nhấn mạnh thêm ở chính
những chỗ mà những lời ca tụng công trạng của đồng chí mà đồng chí cảm thấy
chưa đủ.
Vài đặc điểm về cuộc đời hoạt động của Stalin do
chính tay Stalin bổ khuyết:
"Trong cuộc đấu tranh chống bọn nhu nhược và
bọn đầu hàng, bọn Trotskist và Zinovyev, bọn Bukharin và Kamenev, sau khi Lenin
rời chiến trường, cuối cùng đã hình thành hạt nhân lãnh đạo đảng ta..., bảo vệ
ngọn cờ vĩ đại của Lenin, đoàn kết đảng chung quanh di huấn của Lenin và dẫn
dắt nhân dân Liên Xô trên con đường thênh thang của công nghiệp hóa và tập thể
hóa nông nghiệp. Lãnh đạo hạt nhân ấy, sức mạnh dẫn dắt của đảng và nhà nước
chính là đồng chí Stalin".
Chính Stalin tự tay viết những câu trên! Rồi đồng
chí còn chua thêm:
"Hoàn thành nhiệm vụ của người lãnh đạo đảng
và nhân dân một cách tài tình, được sự ủng hộ toàn diện của nhân dân Xô-viết;
tuy nhiên, Stalin không cho phép trong hoạt động của mình một bóng mờ kiêu
ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình".
Đã ở đâu và có khi nào, một nhà hoạt động lại có
thể tự ca tụng mình như thế chưa? Chẳng lẽ điều ấy xứng đáng với một nhà hoạt
động Mac-xit - Lê-nin-nít? Không. Chính Marx và Engels đã kiên quyết chống lại
điều đó. Chính Lenin cũng luôn lên án mạnh mẽ điều đó.
Trong bản in thử cuốn sách có một câu như sau:
"Stalin là Lenin của thời đại ngày nay". Câu này đối với Stalin rõ
ràng còn chưa đủ, và Stalin đã tự tay sửa lại:
"Stalin - người kế tục xứng đáng sự nghiệp của
Lenin, hoặc như người ta thường nói trong đảng, Stalin là Lenin của thời đại
ngày nay". Nói thật là hay, nhưng không phải do nhân dân nói mà do chính
Stalin.
Có thể chỉ ra vô số những lời tự tán dương mình
tương tự được chính tay Stalin thêm vào trong bản in thử cuốn sách. Stalin đặc
biệt hào phóng khi tự ban cho mình những lời khen ngợi về thiên tài quân sự, về
tài năng cầm quân.
Xin trích dẫn thêm một đoạn do chính Stalin tự tay
bổ sung về thiên tài quân sự của mình:
"Đồng chí Stalin tiếp tục phát triển khoa học
quân sự Xô-viết tiên tiến. Đồng chí Stalin đã soạn thảo định lí về những yếu tố
thường xuyên quyết định vận mệnh chiến tranh, về sự phòng thủ tích cực và các
quy luật phản công và tấn công, về sự phối hợp giữa các binh chủng và kĩ thuật
quân sự trong điều kiện chiến tranh hiện đại, về vai trò của binh đoàn chiến xa
và phi cơ trong chiến tranh hiện đại, về pháo binh, binh chủng hùng mạnh nhất
của quân đội. Trong mỗi giai đoạn chiến tranh khác nhau, thiên tài Stalin luôn
tìm ra những giải pháp đúng đắn, hoàn toàn căn cứ trên đặc điểm của tình hình.
(Xôn xao trong phòng họp.)
Chính Stalin viết tiếp:
"Nghệ thuật cầm quân của Stalin được thể hiện
trong phòng thủ cũng như trong tấn công. Với sự sáng suốt thiên tài, đồng chí
Stalin đã đoán biết kế hoạch của địch và đánh bại chúng. Những trận giao tranh
do đồng chí Stalin chỉ huy quân đội Liên Xô là những hình mẫu xuất chúng của
nghệ thuật quân sự".
Stalin tự tâng bốc bản thân như một lãnh tụ quân
sự. Nhưng ai đã làm tất cả những việc này? Chính Stalin, nhưng không phải trên
cương vị một nguyên soái, mà trong vai một tác giả kiêm biên tập, một trong
những tác giả chính của cuốn tiểu sử tràn ngập những lời ca tụng bản thân.
Thưa các đồng chí, sự thật là như thế. Phải nói
thẳng là sự thật đáng hổ thẹn.
Và còn thêm một sự kiện nữa từ cuốn "Tiểu sử
tóm lược" này. Được biết, cuốn "Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản
(bôn-sê-vích) Liên Xô" được một ủy ban thuộc BCHTW soạn thảo ra. Nhân tiện
xin bổ sung công trình thấm đẫm sùng bái cá nhân này do một nhóm tác giả được
lựa chọn để biên soạn. Và câu này đã được thể hiện trong bản in thử cuốn "
Tiểu sử tóm lược" bằng cách diễn đạt sau:
"Một ủy ban thuộc BCHTW ĐCSLX, dưới sự chỉ đạo
và và tham gia tích cực nhất của cá nhân đồng chí Stalin đã soạn thảo cuốn
"Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (bôn-sê-vich) Liên Xô".
Tuy vậy, cách diễn đạt này vẫn chưa làm Stalin thỏa
mãn, và trong "Tiểu sử tóm lược" nó được thay bằng câu sau:
"Năm 1938, cuốn "Tóm tắt lịch sử Đảng
Cộng sản (bôn-sê-vich) Liên Xô" được ấn hành, do đồng chí Stalin biên soạn
và được ủy ban đặc biệt BCHTW ĐCSLX thông qua". Thử hỏi còn có thể nói gì
thêm nữa! (Xôn xao trong phòng họp)
Như các đồng chí thấy, một biến đổi ngoạn mục khiến
một công trình do tập thể biên soạn trở thành cuốn sách do Stalin viết. Thiết
tưởng không cần phải nói biến đổi này đã diễn ra như thế nào và tại sao.
Xuất hiện một câu hỏi mang tính quy luật: nếu quả
thực Stalin là tác giả cuốn sách đó, cần gì đồng chí phải tán tụng cá nhân
Stalin, và về bản chất, tại sao phải biến đổi toàn bộ giai đoạn lịch sử sau
cách mạng tháng Mười của đảng cộng sản quang vinh quang thành bối cảnh sự
nghiệp của "thiên tài Stalin"?
Chẳng lẽ có thể tìm thấy trong sách này sự phản ánh
chân thực những nỗ lực của đảng ta trong công cuộc biến đổi xã hội, xây dựng xã
hội chủ nghĩa, công nhiệp hóa và tập thể hóa đất nước, cũng như những biện pháp
khác do đảng thực hiện theo đúng con đường Lenin đã vạch ra? Ở đó chủ yếu chỉ
nói về Stalin, về những bài diễn văn, về những bản báo cáo của đồng chí. Tất
cả, không một chút ngoại lệ, đều gắn liền với tên tuổi Stalin.
Và khi chính Stalin tuyên bố mình đã viết cuốn
"Tóm tắt lịch sử Đảng Cộng sản (bôn-sê-vich) Liên Xô", thì điều này
không thể không dấy lên sự ngạc nhiên và ngờ vực. Chẳng lẽ một người Mac-xit -
Lê-nin-nit lại viết về mình như thế, đưa sự sùng bái cá nhân mình lên đến tận
mây xanh?
Hoặc hãy xem vấn đề giải thưởng Stalin. (Xôn xao
trong phòng họp.) Ngay cả các Sa hoàng cũng chưa từng lấy tên mình để đặt cho
các giải thưởng như vậy.
Chính Stalin đã công nhận lời hay nhất của quốc ca
Liên Xô, trong đó không một từ về đảng Cộng sản, nhưng có một đoạn ca ngợi
Stalin không gì so sánh nổi như sau: "Stalin bồi dưỡng cho chúng ta lòng
trung thành với nhân dân,/ Động viên chúng ta trong lao động và vinh
quang".
Trong những dòng này của bản quốc ca, toàn bộ hoạt
động giáo dục, lãnh đạo, động viên của đảng Lê-nin-nit đều ca tụng Stalin. Tất
nhiên, điều này rõ ràng lệch lạc với học thuyết Marx-Lenin, coi thường và hạ
thấp vai trò của đảng. Xin thông báo với các đồng chí là Đoàn chủ tịch BCHTW đã
thông qua nghị quyết về việc soạn lại lời mới cho quốc ca, phản ánh vai trò của
nhân dân, vai trò của đảng. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Chẳng lẽ Stalin không được báo cáo việc tên của
đồng chí đã được đặt cho nhiều xí nghiệp và thành phố lớn, chẳng lẽ Stalin
không được báo cáo việc trên khắp đất nước tượng đài Stalin được xây dựng-
"đài tưởng niệm cho người sống"? Một sự kiện có thật là chính Stalin
vào ngày 2-7-1951 đã kí nghị quyết định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô về việc
xây bức tượng Stalin bên kênh đào Volga-Don, còn ngày 4-9 cùng năm, đã ra chỉ
thị dùng 33 tấn đồng để đúc bức tượng kì vĩ đó. Ai có dịp đến thăm vùng
Stalingrad, chắc chắn đều thấy bức tượng khổng lồ vươn lên, dù nó được xây ở
một nơi ít người qua lại. Và để xây dựng tượng đài này phải tốn không biết bao
nhiêu của cải, thời gian, trong khi dân ta quanh vùng đó sau thời chiến tranh
còn phải sống trong những ngôi nhà đất. Các đồng chí hãy ngẫm xem, điều Stalin
viết trong tiểu sử của mình có đúng hay không: "trong cuộc đời hoạt động
của mình đồng chí không cho phép dù chỉ một bóng mờ của kiêu ngạo, khoe khoang
hay tán tụng cá nhân mình"?
Đồng thời, Stalin đã thể hiện sự thiếu kính trọng
với kỉ niệm về Lenin. Không phải tình cờ, mặc dầu quyết định về việc xây dựng
Cung Xô-viết để tưởng niệm Vladimir Ilich đã được thông qua cách đây 30 năm,
công trình vẫn chưa được xây dựng, và vấn đề ấy liên tục bị trì hoãn và chìm
vào quên lãng. Cần phải sửa chữa việc này và phải khởi công công trình tưởng
niệm Vladimir Ilich Lenin. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Không thể không nhắc đến quyết định của chính phủ
Xô-viết ngày 14-8-1925 "Về việc trao giải thưởng Lenin cho công tác khoa
học". Nghị quyết ấy được đăng tải trên báo chí, nhưng đến nay vẫn chưa hề
có chuyện trao tặng giải thưởng Lenin. Việc này cũng cần phải sửa chữa. (Vỗ tay
vang dội và kéo dài.)
Sinh thời Stalin, nhờ những phương pháp mà tôi từng
nhắc đến, chẳng hạn các sự kiện được viết trong cuốn "Stalin - tiểu sử tóm
lược", mọi biến cố đều được diễn giải như thể Lenin chỉ đóng vai trò thứ
yếu, thậm chí trong việc hoàn thành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười. Trong nhiều phim ảnh và tác phẩm văn học, hình tượng Lenin được miêu tả
một cách sai lệch và bị hạ thấp một cách không thể chấp nhận được.
Stalin rất yêu thích bộ phim "Năm 1919 bất
diệt", trong đó đồng chí được thể hiện đứng trên bậc tàu hỏa và gần như
đánh tan quân thù bằng thanh kiếm của mình. Hãy để Kliment Efremovich, người
bạn quý mến của chúng ta, lấy hết can đảm và viết lên sự thật về Stalin, chính
đồng chí biết Stalin đã chiến đấu như thế nào. Còn đồng chí Voroshilov sẽ khó
khăn hơn để bắt đầu công việc ấy, nhưng tốt biết mấy nếu đồng chí vẫn cứ làm.
Điều đó sẽ được cả nhân dân và đảng đều hoan nghênh. Và thế hệ con cháu sẽ biết
ơn vì điều đó. (Vỗ tay kéo dài.)
Trong việc diễn giải những sự kiện liên quan đến
cách mạng tháng Mười và nội chiến, trong nhiều trường hợp sự việc được mô tả
khiến ta có cảm tưởng vai trò chính yếu thuộc về Stalin ở khắp mọi nơi, bất kể
lúc nào và ở đâu, Stalin là người tham mưu cho Lenin phải làm gì và làm như thế
nào. Thật là một sự lăng mạ đối với Lenin. (Vỗ tay kéo dài.)
Có lẽ, sẽ không phải ngoa ngôn, nếu tôi nói là 99%
các đồng chí có mặt ở đây hầu như ít được biết và ít nghe nói đến Stalin trước
năm 1924, nhưng mọi người trong nước đều biết Lenin; toàn đảng, toàn dân, dù ít
hay nhiều. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Cần phải quyết tâm nhìn lại vấn đề tìm thấy sự phản
ánh đúng đắn trong lịch sử, trong văn học, trong nghệ thuật vai trò của Lenin
và sự nghiệp vĩ đại của đảng ta và của nhân dân Xô-viết, một dân tộc sáng tạo,
một dân tộc kiến tạo. (Vỗ tay.)
Thưa các đồng chí! Tệ sùng bái cá nhân đã dẫn đến
áp dụng rộng rãi những phương pháp sai lầm trong công tác xây dựng đảng và hoạt
động kinh tế, dẫn đến vi phạm thô bạo dân chủ trong nội bộ đảng và Xô-viết,
cưỡng chế bằng biện pháp hành chính, phát sinh những lệch lạc đủ loại: che giấu
thiếu sót, tô hồng thực tế. Đầy rẫy những kẻ nịnh hót, a dua, chuyên nghề lừa
phỉnh và đánh lạc hướng xuất hiện trong chúng ta.
Không thể không thấy do hậu quả của sự bắt giam vô
số cán bộ đảng, nhà nước và tổ chức kinh tế, nhiều đảng viên trở nên thiếu tự
tin trong công việc, nhìn trước ngó sau, sợ đổi mới, sợ ngay cả cái bóng của
mình và thiếu hẳn sáng tạo trong công tác.
Hãy xem những nghị quyết của các cơ quan đảng và
nhà nước. Chúng được soạn thảo theo khuôn mẫu nhất định, nhiều khi hoàn toàn
không đếm xỉa gì đến tình hình cụ thể. Đến mức, phát biểu của các cán bộ trong
đảng hay ngoài đảng, thậm chí trong những hội nghị, hội thảo nhỏ, về một chủ đề
bất kì, cũng là đọc những bài diễn văn viết sẵn. Tất cả những điều này dẫn đến
hiểm họa cho công tác đảng và nhà nước trở nên hình thức, bộ máy tổ chức trở
nên quan liêu.
Sự thiếu hiểu biết tình hình thực tế công việc và
tách rời cuộc sống của Stalin có thể thấy rõ trong cách thức đồng chí lãnh đạo
ngành nông nghiệp.
Bất kì ai chỉ cần một chút quan tâm về tình hình
đất nước, đều thấy hiện trạng khó khăn của nền nông nghiệp, nhưng Stalin chẳng
bao giờ để tâm đến chuyện này. Chúng ta có báo cáo Stalin về vấn đề này không?
Có, chúng ta có nói, nhưng không được ủng hộ. Vì sao? Bởi vì Stalin chẳng bao
giờ chịu đi thực tế các nơi, chẳng bao giờ gặp gỡ công nhân và nông trang viên
cho nên chẳng thể nào nắm được tình hình ở nông thôn.
Stalin chỉ nghiên cứu đất nước và nông nghiệp qua
phim ảnh. Tuy nhiên, những bộ phim chỉ tô hồng, đánh bóng thực trạng nền nông
nghiệp. Đời sống nông trang tập thể trong những bộ phim được mô tả qua hình ảnh
bàn ăn kêu cót két như muốn sụm vì chất đầy thịt gà, thịt ngỗng. Hẳn Stalin
nghĩ rằng điều này là có thật, và nó phải như vậy.
Vladimir Ilich Lenin quan sát thực tế đời sống hoàn
toàn khác, người luôn gần gũi gắn bó với nhân dân, đón tiếp các phái đoàn nông
dân, thường xuyên phát biểu tại các công xưởng và nhà máy, đi thăm nông thôn,
chuyện trò với nông dân.
Stalin xa rời nhân dân và chẳng đi thăm viếng nơi
nào. Sự việc này kéo dài hàng chục năm. Chuyến viếng thăm nông thôn cuối cùng
của Stalin là vào tháng 1-1928, khi đồng chí đi thăm Siberia về vấn đề ngũ cốc.
Thử hỏi làm sao Stalin có thể nắm được tình hình ở nông thôn?
Trong một cuộc nói chuyện, Stalin được báo cáo về
tình hình khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất thịt và các
sản phẩm khác của ngành chăn nuôi trong nước rất yếu kém. Một ủy ban được thành
lập với nhiệm vụ là chuẩn bị một dự thảo nghị quyết "Về những biện pháp
phát triển tiếp theo ngành chăn nuôi ở các nông trang tập thể và nông trường
quốc doanh".
Chúng tôi đã biên soạn dự thảo đó.
Tất nhiên, những đề xuất của chúng tôi thời ấy
không đề cập đến tất cả mọi khả năng, nhưng những phương hướng nhằm nâng cao
mức chăn nuôi gia súc cũng được vạch ra. Khi đó đề xuất tăng giá các sản phẩm
chế biến từ thịt được kiến nghị để nâng cao lợi ích vật chất của nông trang
viên, công nhân trạm máy kéo và người lao động tại nông trường quốc doanh trong
việc phát triển chăn nuôi. Nhưng dự thảo của chúng tôi không được thông qua và
bị xếp xó vào hồi tháng 2-1953.
Ngoài ra, khi xem xét dự thảo này, Stalin còn đề
nghị tăng thuế của các nông trang tập thể và các nông trang viên lên 40 tỉ rúp,
bởi vì, theo ý kiến của đồng chí, tầng lớp nông dân còn sống quá thoải mái và
mỗi nông trang viên chỉ cần bán đi một con gà là thừa tiền đóng thuế nhà nước.
Các đồng chí thử nghĩ như thế là sao? Bốn mươi tỉ
rúp - số tiền như thế thì các nông dân có bán tất tần tật sản phẩm của mình đi
cũng chẳng đào đâu ra được. Vào năm 1952 chẳng hạn, các nông trang tập thể và
nông trang viên chỉ thu được 26 tỉ 280 triệu rúp sau khi đã cung cấp và bán
toàn bộ sản phẩm cho nhà nước.
Thử hỏi đề nghị này của Stalin dựa trên những số
liệu cụ thể nào? Tất nhiên là không. Stalin không hề quan tâm đến những sự kiện
và những con số. Một khi Stalin đã nói điều gì, điều đó phải là như thế, bởi lẽ
Stalin là bậc "thiên tài" và một thiên tài thì không cần tính toán,
chỉ cần liếc mắt là đủ có thể xác định cần phải như thế nào. Stalin nói một lời
nào, thì sau đó ai nấy đều phải lặp lại y hệt và phải tâng bốc sự sáng suốt của
đồng chí.
Nhưng sự sáng suốt nào thể hiện trong việc đề xuất
tăng thuế nông nghiệp lên 40 tỉ rúp? Chẳng có một chút tính toán nào cả, bởi vì
đề xuất ấy không phải xuất phát từ đánh giá hiện trạng thực tế mà chỉ là ý nghĩ
viển vông của một con người xa rời cuộc sống.
Hiện nay, chúng ta đang dần dần thoát khỏi tình
trạng khó khăn trong nông nghiệp. Tham luận của các đại biểu đại hội lần thứ XX
này khiến mỗi người trong chúng ta đều phấn khởi, khi có nhiều đại biểu phát
biểu là chúng ta đã có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ của kế hoạch năm năm
lần thứ sáu ngành chăn nuôi gia súc không phải trong 5 năm mà chỉ từ hai đến ba
năm. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của kế
hoạch năm năm kế tiếp. (Vỗ tay kéo dài.)
Thưa các đồng chí!
Giờ đây, khi chúng ta phê phán mạnh mẽ tệ sùng bái
cá nhân, lan tràn khắp mọi nơi hồi sinh thời Stalin, và vạch trần nhiều hiện
tượng tiêu cực phát sinh từ tệ sùng bái cá nhân, vốn xa lạ với tinh thần học
thuyết Marx-Lenin, một vài người riêng lẻ có thể đặt câu hỏi: sao lại như thế,
Stalin đã lãnh đạo đảng và đất nước trong suốt ba mươi năm đạt được nhiều thắng
lợi to lớn, chẳng lẽ lại có thể phủ nhận điều đó? Tôi cho rằng chỉ những người
mù quáng trước tệ sùng bái cá nhân và bị nó thôi miên đến mức vô phương cứu
chữa, chỉ những người không hiểu bản chất của cách mạng và nhà nước Xô-viết,
không nắm bắt được vai trò của đảng và của nhân dân theo quan điểm Lê-nin-nit
trong quá trình phát triển xã hội Sô-viết, mới đặt câu hỏi như thế.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là do liên minh công
nông, với sự ủng hộ của một bộ phận trung nông, do nhân dân dưới sự lãnh đạo
của đảng bôn-sê-vich thực hiện. Công lao vĩ đại của Lenin là ở chỗ đồng chí đã
thành lập một đảng tiên phong của giai cấp công nhân, trang bị cho đảng việc
nắm vững các quy luật phát triển xã hội theo quan điểm Mác-xít và học thuyết về
thắng lợi của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, đồng
chí đã tôi luyện đảng trong ngọn lửa đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân
dân. Trong cuộc đấu tranh này, đảng đã từng bước bảo vệ quyền lợi của nhân dân,
đã trở thành người lãnh đạo giàu kinh nghiệm đưa quần chúng lao động giành
chính quyền, thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Các đồng chí hẳn còn nhớ rõ nhận định sáng suốt của
Lenin: sự giác ngộ của quần chúng nhân dân chính là sức mạnh của nhà nước
Sô-viết, lịch sử là do hàng triệu, hàng chục triệu con người sáng tạo nên.
Chúng ta đã đạt được những chiến thắng lịch sử nhờ
công tác tổ chức đảng, của nhiều tổ chức địa phương và sự lao động quên mình
của nhân dân vĩ đại. Những thắng lợi ấy là kết quả của hoạt động lớn lao của
một khối thống nhất nhân dân và đảng, và tuyệt nhiên không phải là thành quả
của sự lãnh đạo của một cá nhân Stalin như người ta từng khẳng định trong thời
kì thăng hoa của sùng bái cá nhân.
Nếu tiếp cận vấn đề này theo phương pháp của học
thuyết Marx-Lenin, phải tuyên bố một cách thẳng thắn không úp mở là thực tế
việc lãnh đạo trong những năm cuối đời của Stalin đã thành một trở ngại nghiêm
trọng trên con đường phát triển của xã hội Sô-viết.
Stalin thường trì hoãn nhiều tháng trời không xem
xét những vấn đề vô cùng quan trọng cần phải giải quyết kịp thời, liên quan đến
sinh hoạt đảng và nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Stalin, quan hệ hòa bình giữa
ta với các quốc gia khác lắm lúc bị đe dọa bởi quyết định của một cá nhân và
đôi khi khiến cho tình hình trở nên phức tạp.
Trong những năm gần đây, khi chúng ta thoát khỏi
thực tế tai hại của tệ sùng bái cá nhân và áp dụng nhiều biện pháp thích hợp
trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại, mọi người đều có thể thấy rất rõ, tính chủ
động và ý tưởng sáng tạo của đông đảo quần chúng lao động tăng tiến và phát
triển vượt bậc, điều này đã bắt đầu ảnh hưởng tốt đến kết quả của công cuộc xây
dựng kinh tế và văn hóa. (Vỗ tay.)
Một số đồng chí có thể đặt câu hỏi: lúc đó các ủy
viên Bộ Chính trị BCHTW ở đâu? sao các đồng chí không kịp thời phản đối tệ sùng
bái cá nhân mà đến tận bây giờ mới lên tiếng?
Trước hết, cần phải lưu ý, các ủy viên Bộ Chính trị
nhìn nhận vấn đề này một cách khác nhau trong các thời kì khác nhau. Thời kì
đầu, nhiều người trong số họ tích cực ủng hộ Stalin vì Stalin là một trong
những nhà Mac-xit mạnh mẽ nhất và lí luận, sức mạnh và ý chí của đồng chí có
ảnh hưởng lớn đến đội ngũ cán bộ đảng và công tác đảng.
Như đã biết, sau khi Lenin mất, đặc biệt vào thời
kì đầu, Stalin đã đấu tranh tích cực bảo vệ học thuyết Lenin, chống lại kẻ thù
và những người rời bỏ học thuyết này. Xuất phát từ chủ nghĩa Lenin, đảng ta -
đứng đầu là BCHTW - đã triển khai nhiệm vụ to lớn nhằm công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa đất nước, tập thể hóa nông nghiệp và tiến hành cách mạng văn hóa.
Thời đó, Stalin rất được lòng dân, giành được thiện cảm và ủng hộ. Đảng đã phải
đấu tranh chống những thế lực muốn đưa đất nước khỏi đường lối Lê-nin-nit duy
nhất đúng đắn, chống bè lũ Trotskit, Zinovyev, hữu khuynh và tư sản quốc gia.
Cuộc đấu tranh này là cần thiết. Nhưng về sau, Stalin ngày càng lạm dụng quyền
lực, mở cuộc tấn công những nhà hoạt động uy tín của đảng và nhà nước, áp dụng
các biện pháp khủng bố chống lại những con người Sô-viết trung thực. Như đã đề
cập, Stalin đã áp dụng những biện pháp như thế với những nhà hoạt động xuất sắc
của đảng và nhà nước, như các đồng chí Kosior, Rudzutak, Eikhe, Postyshev và
nhiều người khác.
Những người có ý định phản đối những nghi ngờ và
buộc tội vô căn cứ đều bị đàn áp. Vụ việc của đồng chí Postyshev là một trường
hợp điển hình.
Trong một buổi nói chuyện, Stalin tỏ vẻ không hài
lòng với Postyshev và đặt câu hỏi:
- Thật ra anh là ai?
Postyshev cứng rắn tuyên bố với giọng nói đặc sệt
miền Volga của đồng chí:
- Là người bôn-sê-vich, thưa đồng chí Stalin, tôi
là người bôn-sê-vich!
Lời tuyên bố này thoạt đầu được đánh giá là thiếu
lễ độ với Stalin, sau đó trở thành hành động phá hoại và cuối cùng dẫn đến việc
thủ tiêu Postyshev, bị cáo buộc một cách hoàn toàn vô căn cứ là "kẻ thù
của nhân dân".
Hồi ấy, tôi thường trao đổi về tình hình thực tế
với Nikolai Alexandrovich Bulganin. Một lần, khi chúng tôi đi cùng xe, đồng chí
bảo tôi:
- Đôi lúc, có ai đó được Stalin mời đến gặp như một
người bạn. Nhưng khi ngồi ở chỗ Stalin, anh ta không biết sau đó mình sẽ đi
đâu: trở về nhà hay vào tù.
Rõ ràng, hoàn cảnh như vậy đã đặt các ủy viên Bộ Chính
trị vào một tình thế hết sức khó khăn. Nếu xét đến việc trong những năm gần
đây, hội nghị toàn thể BCHTW thực tế không hề được triệu tập và những kì họp
của Bộ Chính trị cũng chỉ thỉnh thoảng mới được tiến hành, có thể hiểu được rất
khó khăn cho một ủy viên Bộ Chính trị lên tiếng chỉ trích một biện pháp bất
công hay sai trái nào đó, hoặc chống lại những sai lầm và thiếu sót nghiêm
trọng trong công tác lãnh đạo.
Như đã nhắc đến, nhiều quyết định chỉ do một cá
nhân định đoạt, hoặc chỉ được lấy ý kiến mà không thông qua thảo luận tập thể.
Mọi người đều biết số phận bi thảm của đồng chí
Voznesensky, ủy viên Bộ Chính trị, nạn nhân của sự đàn áp Stalin. Điển hình là
việc đưa Voznesensky ra khỏi Bộ Chính trị đã không hề thông qua một cuộc thảo
luận nào cả mà chỉ được tiến hành lấy ý kiến. Quyết định miễn nhiệm các đồng
chí Kuznetsov và Rodionov cũng được thực hiện theo lối ấy.
Vai trò của Bộ Chính trị BCHTW bị thu hẹp đáng kể
và công việc của cơ quan này bị xáo trộn vì việc thành lập ngay trong Bộ Chính
trị đủ thứ tiểu ban, với những tên gọi như "tiểu ban năm người",
"tiểu ban sáu người", "tiểu ban bảy người", "tiểu ban
chín người". Chẳng hạn, nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 3-10-1946:
"Đề nghị của đồng chí Stalin: 1. Giao cho Tiểu
ban đối ngoại thuộc Bộ Chính trị (tiểu ban sáu người), ngoài những vấn đề chính
trị đối ngoại, sẽ chịu trách nhiệm về những vấn đề xây dựng nội bộ và chính trị
đối nội. 2. Bổ sung vào thành phần "tiểu ban sáu người" đồng chí
Voznesensky, chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước, để thành "tiểu ban bảy
người". Bí thư BCHTW - Stalin".
Theo thuật ngữ cờ bạc thì phải hiểu thế nào? (Cười
lớn trong phòng họp.) Rõ ràng, việc thành lập những ủy ban loại này trong Bộ
Chính trị - "tiểu ban năm người", "tiểu ban sáu người",
"tiểu ban bảy người", "tiểu ban chín người" trái với nguyên
tắc lãnh đạo tập thể. Hậu quả là, một số ủy viên Bộ Chính trị bị loại khỏi các
việc quyết định những vấn đề quan trọng nhất.
Một trong những đảng viên kì cựu nhất của đảng,
đồng chí Kliment EfremovichVoroshilov, đã từng lâm vào hoàn cảnh không thể chịu
đựng nổi. Trong nhiều năm ròng, đồng chí thực sự bị tước quyền tham gia vào
công việc của Bộ Chính trị. Xtalin đã cấm đồng chí dự các buổi họp của Bộ Chính
trị và không gửi cho đồng chí các văn kiện hội nghị. Cứ mỗi lần biết Bộ Chính
trị triệu tập họp, Voroshilov lại gọi điện cho Stalin hỏi xem mình có được phép
tham dự phiên họp hay không. Đôi khi Stalin cho phép, nhưng luôn luôn tỏ ra
không vừa ý. Do bản tính hay tưởng tượng và nghi ngờ quá đỗi, Stalin còn có
nghi ngờ phi lí và nực cười rằng Voroshilov là gián điệp của Anh. (Cười lớn
trong phòng họp.) Thật thế, gián điệp Anh quốc! Người ta đã đặt ở nhà đồng chí
một thiết bị đặc biệt để nghe lén tất cả các cuộc nói chuyện. (Phẫn nộ trong
phòng họp.)
Stalin còn độc đoán trong việc loại một ủy viên Bộ
Chính trị khác ra khỏi công tác của Bộ Chính trị, đó là Andrei Andreyevich
Andreev.
Đó là biểu hiện quá đà nhất của sự chuyên quyền.
Ta còn nhớ tại hội nghị toàn thể BCHTW đầu tiên sau
đại hội đảng lần thứ XIX, trong bài phát biểu của mình, Stalin đã nêu tính cách
của Vyacheslav Mikhailovich Molotov và Anatas Ivanovich Mikoyan, và tỏ ý buộc
tội hoàn toàn vô căn cứ hai nhà hoạt động kì cựu của đảng ta.
Không loại trừ khả năng nếu như Stalin còn ở cương
vị lãnh đạo thêm vài tháng nữa, có lẽ các đồng chí Molotov và Mikoyanan không
còn cơ hội đọc tham luận tại đại hội kì này.
Rõ ràng, Stalin đã có kế hoạch thanh trừng tất cả
các cựu ủy viên Bộ Chính trị. Stalin nhiều lần tuyên bố cần thay thế các ủy
viên Bộ Chính trị. Đề nghị của Stalin sau đại hội lần thứ XIX về việc bầu chọn
Đoàn chủ tịch của BCHTW gồm 25 người nhằm mục đích loại bỏ những cựu ủy viên Bộ
Chính trị và thay vào bằng những người ít kinh nghiệm hơn, để họ sẵn sàng tung
hô Stalin. Thậm chí có thể giả thiết rằng mọi việc còn được sắp đặt để thủ tiêu
các cựu ủy viên Bộ Chính trị sau đó, và giấu nhẹm những hành vi đáng hổ thẹn
của Stalin mà hôm nay chúng ta báo cáo ở đây.
Thưa các đồng chí! Để không lặp lại những sai lầm
của quá khứ, BCHTW kiên quyết bày tỏ lập trường chống tệ sùng bái cá nhân.
Chúng ta nhận thấy Stalin đã được tán dương một cách thái quá. Không thể chối
cãi, trong quá khứ Stalin đã có công trạng lớn đối với đảng, với giai cấp công
nhân và phong trào công nhân quốc tế.
Vấn đề trở nên phức tạp ở chỗ, tất cả những điều
chúng ta vừa nêu trên đây đã xảy ra lúc sinh thời Stalin, dưới sự lãnh đạo và
đồng ý của đồng chí, Stalin tin chắc điều đó là cần thiết cho việc bảo vệ quyền
lợi của giai cấp lao động trước những âm mưu của kẻ thù và sự tấn công của phe
đế quốc. Stalin xem xét toàn bộ sự việc trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của
giai cấp công nhân, quyền lợi của nhân dân lao động và thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Không thể nói đó là hành động của một kẻ điên
cuồng. Đồng chí cho rằng cần thiết phải làm như thế vì quyền lợi của đảng, của
quần chúng lao động, để bảo vệ những thành quả cách mạng. Bi kịch thật sự là ở
chỗ đó!
Thưa các đồng chí! Lenin đã nhiều lần nhấn mạnh:
khiêm tốn là đức tính không thể thiếu được của một người bôn-sê-vich chân
chính. Bản thân Lenin là biểu tượng của đức khiêm tốn ở mức cao nhất. Không thể
nói là trong mọi phương diện, chúng ta đã noi theo tấm gương của Lenin. Có thể
nói nhiều thành phố, công xưởng và nhà máy, nông trang tập thể và nông trường
quốc doanh, các cơ quan Sô-viết, các tổ chức văn hóa dường như, nếu có thể diễn
đạt như vậy, là sở hữu cá nhân, mang tên các lãnh tụ đảng và nhà nước, mặc dù
họ vẫn hoàn toàn khỏe mạnh và đang công tác tốt. Nhiều người trong số chúng ta
đã để người ta lấy tên mình đặt cho các thành phố, các quận huyện, các xí
nghiệp và nông trang tập thể. Cần chấn chỉnh lại điều này. (Vỗ tay.)
Nhưng chúng ta phải làm việc này với suy nghĩ thấu
đáo và không được nóng vội. BCHTW sẽ thảo luận và điều tra kĩ càng vấn đề này
để tránh mọi sai lầm và quá khích. Tôi còn nhớ trước kia tại Ukraina chúng tôi
biết tin Kosior bị bắt bằng cách nào. Đài phát thanh Kiev thường mở đầu chương
trình bằng như sau: "Đây là đài tiếng nói mang tên Kosior". Bỗng một
ngày, chương trình bắt đầu, nhưng cái tên Kosior không được nhắc tới. Và mọi
người đều đoán ra rằng đã có chuyện với Kosior, chắc là đã bị bắt giam.
Vì thế, nếu chúng ta bắt đầu gỡ bỏ các biển tên,
tiến hành đổi tên ở khắp nơi, thì mọi người có thể nghĩ rằng đã có chuyện xảy
ra với những đồng chí có tên được đặt cho những xí nghiệp, những nông trang hay
những thành phố, có lẽ, họ đã bị bắt giam cũng nên. (Xôn xao trong phòng họp.)
Ở chúng ta hiện nay, thước đo về uy tín và và tầm
quan trọng của lãnh đạo này hay lãnh đạo khác dựa trên cơ sở nào? Dựa trên số
lượng các thành phố, các nhà máy và công xưởng, các nông trang tập thể và nông
trang quốc doanh được mang tên họ. Phải chăng đã đến lúc cần chấm dứt với
"sở hữu cá nhân" đó và tiến hành "quốc hữu hóa" lại các
công xưởng và nhà máy, các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. (Cười
lớn, vỗ tay. Hoan hô "Đúng lắm!"). Điều này chỉ có lợi cho sự nghiệp
của chúng ta. Tệ sùng bái cá nhân cũng biểu hiện trong những hình thức như thế.
Chúng ta phải có thái độ hết sức nghiêm túc đối với
vấn đề sùng bái cá nhân. Chúng ta không để vấn đề này lọt ra ngoài phạm vi
đảng, nhất là không để báo giới biết tin này. Đó là lí do chúng ta báo cáo
trong phiên họp kín của đại hội. Việc gì cũng có giới hạn của nó, không được
nối giáo cho giặc, không được vạch áo cho người xem lưng. Tôi tin rằng các đại
biểu đại hội sẽ thấu hiểu và đánh giá đúng đắn những đề nghị của tôi. (Vỗ tay
vang dội.)
Thưa các đồng chí! Chúng ta cần kiên quyết, một lần
và vĩnh viễn, xóa bỏ tệ sùng bái cá nhân, rút ra những kết luận đúng đắn trong
lĩnh vực lí luận tư tưởng cũng như trong thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu, chúng ta cần:
Một là, phải bàn bạc theo tinh thần bôn-sê-vich và
loại trừ tận gốc rễ tệ sùng bái cá nhân xa lạ với học thuyết Marx-Lenin và
không phù hợp với những nguyên tắc lãnh đạo đảng và những quy tắc sinh hoạt
đảng, phải đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi mưu toan nhằm khôi phục
tệ nạn đó dưới hình thức này hay hình thức khác.
Phải khôi phục và tiến hành, trong toàn bộ công tác
tư tưởng của đảng ta, những nguyên lí quan trọng nhất của học thuyết Marx-Lenin
về nhân dân, như là người sáng tạo lịch sử, sáng tạo mọi giá trị vật chất và
tinh thần của nhân loại, về vai trò quyết định của đảng Mac-xit trong đấu tranh
cách mạng để cải tạo xã hội, vì thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Vì lẽ đó, chúng ta buộc phải tiến hành một công
việc to lớn - dưới ánh sáng học thuyết Marx-Lenin - xem xét phê bình và uốn nắn
những quan điểm lệch lạc liên quan đến vấn đề sùng bái cá nhân, rất thịnh hành
trong lĩnh vực lịch sử, triết học, kinh tế và các ngành khoa học khác, cũng như
trong văn học và nghệ thuật. Nói riêng, trong giai đoạn sắp tới, chúng ta phải
tiến hành việc soạn thảo sách giáo khoa về lịch sử đảng ta, đúng đắn, mang tính
khách quan của chủ nghĩa Mac-xit khoa học, sách giáo khoa về lịch sử xã hội
Sô-viết và những sách về lịch sử nội chiến và chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Hai là, phải tiếp tục công việc do BCHTW tiến hành
trong những năm gần đây một cách thường xuyên và kiên trì về việc triệt để tuân
thủ những nguyên tắc Lê-nin-nit về lãnh đạo đảng trong tất cả các cơ sở đảng,
từ trên xuống dưới, trước tiên là nguyên tắc lãnh đạo tập thể tối cao, tuân thủ
những quy tắc sinh hoạt đảng được quy định trong điều lệ đảng ta, triển khai mở
rộng phê và tự phê.
Ba là, phải khôi phục lại toàn bộ những nguyên tắc
Lê-nin-nit của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Xô-viết, được thể hiện trong Hiến
pháp Liên Xô, phải đấu tranh chống lại sự chuyên quyền của những cá nhân lạm
dụng quyền lực. Cần thiết phải chấn chỉnh đến cùng sự vi phạm pháp chế cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tồn tại trong một thời kì dài như hậu quả tiêu cực do tệ
sùng bái cá nhân gây ra.
Thưa các đồng chí!
Đại hội lần thứ XX của ĐCSLX, với một sinh lực mới,
đã biểu dương sự thống nhất không gì phá vỡ nổi của đảng ta, sự đoàn kết xung
quanh BCHTW, sự quyết tâm thực hiện nhiệm vụ vĩ đại xây dựng chủ nghĩa cộng
sản. (Vỗ tay vang dội.) Và chính sự kiện giờ đây chúng ta nêu ra những vấn đề
mang tính nguyên tắc trên mọi phương diện về việc khắc phục tệ sùng bái cá
nhân, vốn xa lạ với học thuyết Marx-Lenin, cũng như vấn đề giải quyết những hậu
quả nghiêm trọng do nó gây ra, đã nói lên sức mạnh đạo lí và chính trị vĩ đại
của đảng ta. (Vỗ tay kéo dài.)
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới ánh sáng
những nghị quyết lịch sử của đại hội lần thứ XX, đảng ta sẽ đưa nhân dân
Sô-viết tiến đến những thành công mới, tiến đến những thắng lợi mới, theo con
đường Lenin đã vạch ra. (Vỗ tay vang dội và kéo dài.)
Ngọn cờ bách chiến bách thắng của đảng ta, chủ
nghĩa Lenin muôn năm! (Vỗ tay vang dội và kéo dài, chuyển sang hoan hô nhiệt
liệt. Mọi người đứng dậy.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét