Lời người dịch
Trong di sản văn chương đồ sộ của nhà văn Nga
Alexander Solzhenitsyn (1918-2008), đoạt giải Nobel Văn chương năm 1970, có hai
chuỗi đoản văn viết vào hai giai đoạn: 1958-1963 - trong những chuyến du hành
bằng xe đạp ở miền Trung nước Nga; 1996-1999 - khi trở về Nga
sau hai mươi năm lưu đày biệt xứ, mà ông gọi đó là những ghi chép "vụn
vặt". Chính những cái "vụn vặt" ấy lại mang đậm tinh thần Nga
nhất trong toàn bộ sáng tác của Solzhenitsyn, và chỉ khi ở trên mảnh đất Nga
chôn nhau cắt rốn, nhà văn mới có cảm hứng để viết những đoản văn này. Trong
bức thư gửi ban biên tập tạp chí "Thế giới mới" vào năm 1996 ông
viết: "Chỉ sau khi trở về Nga, dường
như tôi lại mới có thể viết chúng, còn ở đó (bang Vermont, Hoa Kì) - thì không thể nào!".
Tháng 12 năm 1961, Solzhenitsyn đã trao cho
Tvardovsky, Tổng biên tập tạp chí "Thế giới mới" một số đoản văn,
song thể loại này không được chú í lắm. Mùa xuân 1964, tác giả gửi bản thảo
những đoản văn cho một số người bạn, và chúng nhanh chóng được phổ biến trong
trào lưu "xuất bản tự do". Đến mùa thu 1964, tạp chí
"Grani" của Nga kiều tại Frankfurt lần đầu tiên đăng tải một loạt
"Đoản văn" trên số báo 56.
Nếm trải đủ mọi cay đắng lẫn vinh quang trọn cuộc
đời gần một thế kỉ, trong hai chuỗi đoản văn tác giả ghi lại những cảm nhận về
tự do, về tổ quốc, về những giá trị tinh thần của Chính thống giáo, về tuổi
già, về cái chết và sau cái chết.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 32 đoản văn
của Alexander Solzhenitsyn, mà chúng tôi đặt tựa là "Tùy bút
Solzhenitsyn".
Phạm Ngọc dịch từ nguyên tác tiếng Nga trong "Alexander
Solzhenitsyn toàn tập" (30 tập), Tập 1 - Truyện ngắn & Đoản văn, Nxb
"Thời đại" Moskva, 2006.
Tại lễ trao giải Nobel, Stockholm - Thụy Điển ngày 10/12/1974 |
1958 - 1963
1. Thở
Mưa nhỏ vào đêm, và bây giờ mây đen đang vần vũ
trên bầu trời, thi thoảng lại lắc rắc những hạt mưa nhẹ.
Tôi đứng dưới gốc táo đang trổ hoa và hít thở.
Không chỉ mỗi cây táo mà cả đám cỏ xung quanh cũng đang ngái hương sau cơn mưa
- không sao gọi được tên cái tinh chất ngọt ngào đang thấm đẫm không gian. Tôi
hít căng hai buồng phổi, cảm nhận hương thơm bằng trọn lồng ngực, hít vào, hít
nữa, lúc mở to mắt, lúc lại nhắm nghiền, không biết cách nào thì tận hưởng tốt
hơn.
Có lẽ, đấy chính là tự do - thứ tự do duy nhất
nhưng đáng quý nhất mà chốn ngục tù đã tước mất của chúng tôi: được hít thở thế
này, được hít thở nơi đây. Không một món ăn trân quý nào trên thế gian, không
một thứ rượu vang nào, thậm chí không một nụ hôn của người đàn bà nào đối với
tôi lại ngọt ngào hơn thứ không khí này, đượm hương hoa, ẩm ướt và tươi mát.
Cho dù đây chỉ là khoảnh vườn con con, bị dồn nén
trong song sắt dã man của những khu nhà năm tầng. Tôi đã không còn nghe thấy
tiếng rú xe máy, tiếng rột roạt của máy thu thanh, tiếng lục bục của loa phóng
thanh. Chừng nào còn có thể hít thở không khí sau cơn mưa dưới gốc táo, chừng
ấy còn có thể sống thêm!
2. Hồ Segden
Người ta không viết, thậm chí không dám nói lớn về
nó. Mọi con đường dẫn đến hồ đều bị chặn lại, như đường đến lâu đài cổ tích,
khắp các ngả đường đều treo biển cấm, một vạch ngang đơn giản câm lặng. Người
hoặc thú hoang hễ thấy biển cấm này trên đường đi là phải quay lại ngay lập
tức! Một thế lực trần gian đã dựng chúng lên. Nó có nghĩa: không được chạy qua
và không được bay qua, không được đi qua và không được bò qua.
Gần đường, trong rừng thông, những người lính canh
được trang bị gậy gộc và súng ống ngồi phục.
Đi vòng quanh cánh rừng thinh lặng, đi lòng vòng
tìm lối ra hồ - nhưng không tìm thấy, mà cũng không hỏi được ai: người ta dọa
dẫm khiến chẳng còn ai dám ở trong rừng. Chỉ còn cách nương theo tiếng chuông
đeo cổ đùng đục của đàn bò, anh lần qua lối mòn in dấu chân của bầy gia súc vào
giờ giữa trưa, trong một ngày mưa. Và chỉ mới vừa loáng thấy lấp lánh ánh nước,
mênh mông, giữa rừng cây, còn chưa kịp chạy đến nơi, anh đã biết ngay rằng: anh
sẽ iêu cái chốn trần gian này đến trọn đời.
Hồ Segden[1] - tròn vành vạnh như được quay bằng com-pa. Nếu hét lớn từ bờ bên này
(nhưng anh sẽ không la lên, để người ta khỏi phát hiện) - chỉ còn tiếng vọng
gần bặt hẳn đến bờ bên kia. Xa thật là xa. Rừng ven bờ bao quanh hồ. Cây rừng
mọc đều tăm tắp, không thân cây nào thò ra thụt vào. Bước ra phía nước, trước
mắt anh rộng mở một khung cảnh quanh bờ hồ khép kín: nơi này là dải cát vàng,
nơi kia đám lau sậy xam xám lù xù, nơi nọ đám cỏ mọng xanh nõn phơi mình. Mặt
hồ phẳng như gương, không một gợn lăn tăn, rải rác ven bờ ít vạt bèo tấm, còn
thì nước trong vắt, nhìn thấu cả đáy hồ trăng trắng.
Nước riêng một cõi. Rừng riêng một cõi. Hồ ngửa mặt
ngắm bầu trời, bầu trời soi bóng nước. Và liệu còn có gì sánh bằng: trên mặt
đất này - chưa từng được biết, ngoài khu rừng này - chưa từng được thấy. Mà giả
như có - thì cũng bằng thừa, nơi này chẳng cần đến làm gì.
Giá như được sống trọn kiếp ở đây... Ở đây tâm hồn,
tựa làn không khí đang run rẩy, dường như lai láng giữa trời và nước, những suy
tư sâu lắng và thanh khiết dường như muốn tuôn trào.
Chẳng thể nào. Lãnh chúa bạo tàn, đại ác nhân mắt
lé[2], đã độc chiếm hồ để làm nhà nghỉ, xây hồ tắm. Lũ tiểu ác nhân bơi
thuyền câu cá, săn vịt. Thoạt tiên một sợi khói lam lãng đãng mặt hồ, tiếp đó
tiếng súng vang lên.
Còn ở ngoài bìa rừng, vùng dân cư xung quanh nhấp
nhô trải dài. Nhưng mọi ngả đường đến đây đều bị chặn lại để khỏi ai quấy rầy
bọn họ, câu cá và săn thú ở đây là đặc quyền của họ. Dấu vết còn đây: ai đó
nhóm lửa trại, đầu tiên họ dập tắt rồi tống cổ đi.
Hồ hoang vắng. Hồ thân thương.
3. Chú vịt con
Một chú vịt con vàng vàng be bé, áp cái ức trăng
trắng vào đám cỏ ướt trông rất buồn cười, đôi chân mỏng mảnh suýt nữa thì ngã
dúi, chạy trước mặt tôi và líu ra líu ríu: "Mẹ tôi đâu? Anh em tôi đâu cả
rồi?"
Chú không có mẹ, mà là một cô gà mái: người ta dúi
mấy cái trứng vịt vào ổ, cô ta ấp chúng lẫn với đám trứng của mình, ủ ấm đều
như nhau. Giờ đây sắp sửa mưa giông, người ta dời nhà của chúng - một cái sọt
không đáy lật úp - vào nơi có mái che, phủ tấm bao bố lên. Cả nhà đều ở đó, còn
mỗi chú bị lạc đàn. Nào bé con, bước lên lòng bàn tay ta nào.
Hồn phách có chăng trong cái thân xác bé tẹo này?
Nhẹ bẫng, cặp mắt đen nhánh hạt huyền, đôi chân chim sẻ, chỉ cần siết nhẹ một
cái là chú mình tan biến. Thêm nữa, lại hơi âm ấm. Cái mỏ tí hon màu hồng nhạt,
như được phủ một lớp sơn móng tay, đã có dáng bè bè. Bàn chân đã kéo màng, màu
lông đã phớt vàng, và đôi cánh phủ lông tơ đã nhô ra. Thậm chí tính cách cũng
đã khác biệt với đám anh em mình.
Còn chúng ta, chúng ta sắp sửa bay lên tận sao Kim.
Giờ đây, nếu như tất cả đều đồng lòng, thì chỉ trong vòng hai mươi phút ta có
thể đảo lộn cả thế giới.
Nhưng không bao giờ, với tất cả sức mạnh nguyên tử,
dù có được cấp lông và xương, chẳng đời nào chúng ta có thể tạo ra được, cấy
ghép được trong ống nghiệm chú vịt con vàng vàng nhẹ bẫng đáng thương này...
4. Nơi iên nghỉ của nhà thơ
Bây giờ là thôn Lgovo, còn xưa kia là thành phố cổ
Olgov nằm trên bờ dốc đứng của dòng sông Oka: vào thế kỉ đó, sau nước, cả nước
uống lẫn nước sông, nước suối, thì vưu vật thứ nhì mà người Nga lựa chọn - đó
là cái đẹp. Ingvar Igorevich[3], nhờ một phép màu mà thoát được lưỡi gươm của đám anh em ông ta, đã cho
dựng ở đây tu viện Uspensky để tạ ơn cứu rỗi. Qua những bãi bồi, vào ngày quang
đãng, từ đây có thể thấy xa xa, cách độ 35 dặm[4] ngay khúc ngoặt, tháp chuông cao của tu viện Yoann Bogoslov.
Kha hãn Bạt Đô[5], một người mê tín, đã tha không tàn phá cả hai tu viện.
Chỗ này là nơi duy nhất mà Yakov Petrovich Polonsky[6] hồi còn sinh thời đã ngắm nghía và chọn làm nơi iên nghỉ sau cùng. Có
lẽ chúng ta quan niệm rằng thể phách của ta sẽ bay lãng đãng trên nấm mộ và
ngoảnh nhìn vào khoảng bao la iên bình.
Nhưng giờ đây - chẳng còn mái vòm, nhà thờ cũng
không, trên bức tường đá còn trơ lại phân nửa người ta dựng thêm hàng rào bằng
ván có giăng dây thép gai, và ngự trị trên toàn bộ di tích cổ kính là những
tháp canh - tên ngáo ộp bỉ ổi, và rất quen thuộc, quen đúng mức... Tại cổng tu
viện đặt một trạm gác. Tấm bích chương: "Vì hòa bình giữa các dân
tộc!" vẽ hình một công nhân Nga nắm tay người bạn châu Phi.
Chúng tôi vờ như chẳng hiểu gì. Và giữa những lán
gỗ làm nơi ở của ban quản giáo, tay giám thị nghỉ trực ca mặc chiếc áo lót
giảng giải:
- Chính tu viện đã ở đây, xếp thứ hai thế giới đấy.
Thứ nhất có lẽ ở Roma. Còn ở Moskva chỉ xếp thứ ba thôi. Khi còn trại cải tạo
thiếu niên ở đây, mấy thằng con trai, chẳng biết gì sất, đã bôi lem nhem hết
các bức tường, đập bể tượng thánh. Sau đó nông trang mua lại hai nhà thờ với
giá 40 ngàn rúp để lấy gạch, họ muốn xây một chuồng bò sáu dãy. Chính tôi đây
cũng được thuê: 50 xu cho một viên gạch nguyên, 20 xu nửa viên. Chỉ có điều khó
mà gỡ được gạch còn nguyên lành, chúng dính chắc với hồ vữa thành một khối. Hầm
mộ dưới nhà thờ cũng được moi ra, thi hài tổng giám mục nằm đó, hộp sọ và tấm
áo choàng còn nguyên vẹn. Chúng tôi hai đứa cùng xé tấm áo choàng, không thể xé
nổi...
- Ông bảo, theo bản đồ thì phần mộ nhà thơ Polonsky
ở đây. Vậy nó đâu rồi?
- Không được đụng đến Polonsky. Ông ấy trong khu
vực cấm. Không được xâm phạm. Mà xem gì ở đó? - tấm bia đã mục nát phỏng? Mặc
dù đang đứng, tay giám thị cũng ngoảnh lại nói với bà vợ - hình như mộ của
Polonsky đã bốc đi rồi thì phải?
- Ừ. Đem về Ryazan rồi - bà vợ đứng trên bậc tam
cấp gật đầu, miệng cắn hạt hướng dương.
Tay giám thị như tự nói với mình, nghe rất buồn
cười:
- Nghĩa là đã được phóng thích...
5. Khúc gỗ du
Chúng tôi cưa củi, nhặt khúc gỗ du - và thốt lên
kinh ngạc: từ dạo chúng tôi đốn cây hồi năm ngoái, rồi lôi về bằng máy kéo, rồi
cưa hết các nhánh, rồi quẳng lên xà lan và lên thùng xe, rồi chất thành đống,
rồi quăng bừa trên đất - khúc gỗ du vẫn không chịu đầu hàng! Từ thân gỗ một
chồi xanh nõn lại nảy ra - cả một cây du trong tương lai hoặc một nhánh rậm rạp
xào xạc.
Chúng tôi đã đặt khúc gỗ lên giá, như đưa lên đoạn
đầu đài, nhưng còn chần chừ chưa nỡ hạ lưỡi cưa vào cổ nó: lòng dạ nào mà xuống
tay cưa? Nó còn ham sống biết dường nào! Sức sống của nó còn mãnh liệt hơn cả
của chúng tôi!
6. Bóng nước
Trên mặt dòng nước chảy xiết khó thể phân biệt được
ảnh phản chiếu, dù gần hay xa, kể cả lúc nước trong, kể cả khi không sủi bọt -
sóng gợn thành tia liên hồi, lấp loáng không ngừng khiến hình ảnh không trung
thực, nhòe nhoẹt, không rõ hình thù.
Chỉ khi dòng nước chảy qua hết sông này sông khác,
ra đến cửa sông rộng lớn hiền hòa, hoặc đổ vào vũng ngưng đọng, hoặc vào hồ
nhỏ, nơi nước không còn lay động, chỉ ở đó ta mới thấy rõ trên mặt gương từng
chiếc lá con của nhánh cây ven bờ, từng sợi mây mỏng mảnh, và bầu trời xanh
thăm thẳm.
Anh cũng vậy mà tôi cũng vậy. Nếu đến giờ này mà ta
còn chưa cách nào nhận ra, chưa cách nào phản chiếu được cái chân lí rành rành
bất tử, phải chăng nghĩa là vì ta còn vọng động đâu đó? Còn đang sống?
7. Cơn giông trên núi
Cơn giông bắt gặp chúng tôi vào một đêm tối đen như
mực trước khi vượt qua bên kia núi. Chúng tôi bò ra khỏi lều và tìm chỗ núp.
Nó đến chỗ chúng tôi qua sườn núi.
Tất cả chỉ còn là một màu đen kịt, không thấy trời,
không thấy đất, đường chân trời cũng không. Rồi một tia sét như xé rách màn đêm
lóe lên,tách biệt bóng tối và ánh sáng[7], những đỉnh núi khổng lồ nhô lên, Belala-Kaya và Juguturlyuchat[8], những cây thông đen thẫm cao vút gần chúng tôi, cũng nhô lên với núi.
Chỉ trong nháy mắt, chúng tôi có cảm giác như đất cứng dưới chân, rồi tất cả
lại tối đen và thăm thẳm không đáy.
Những tia chớp lóe lên, bầu trời luân phiên hết
sáng chói rồi lại đen kịt, lóe trắng, lóe hồng, lóe tím; tất cả vẫn ở nguyên
tại chỗ, những đỉnh núi và những cây thông cứ nhô lên, làm sửng sốt vì vẻ khổng
lồ sừng sững, còn khi biến mất thì không thể tin được là chúng tồn tại.
Tiếng sấm lấp đầy khe núi át cả tiếng gầm gừ không
ngớt của những dòng sông. Những tia sét, tựa những mũi tên của Đấng Sáng Thế
Sabaoth, từ trên không bổ xuống sườn núi, chẻ ra thành những con rắn ngoằn
ngoèo, thành những tia nhỏ, dường như bắn tung tóe vào các đỉnh núi hoặc như
bắn ra, tóe ra những sinh linh.
Còn chúng tôi, chúng tôi quên cả sợ sấm chớp và mưa
rào - như giọt nước biển nào biết sợ gì bão tố. Chúng tôi hóa thành hạt bụi li
ti được ban ơn của thế giới này. Một thế giới lần đầu tiên được tạo ra hôm nay
- trong mắt chúng tôi.
8. Thành phố bên bờ Neva
Những thiên thần với chân đèn trong tay phủ phục
quanh mái vòm kiểu Byzantine[9] của nhà thờ thánh Isaac[10]. Ba đỉnh nhọn nhiều cạnh dát vàng vẫy chào nhau qua những dòng sông
Neva và Moyka. Đó đây những tượng sư tử, sư tử đầu chim, nhân sư đang canh giữ
kho báu hay đang ngủ lim dim. Cỗ xe sáu ngựa "Chiến thắng" đang phi
trên nóc cổng vòm của Rossi[11]. Hàng trăm hành lang, hàng ngàn cột đá, những phù điêu khắc hình ngựa
chồm vó, bò tót giương sừng...
May mắn làm sao, không vật thể kiến trúc nào được
phép xây dựng ở khu vực này! - không một tòa nhà chọc trời hình hộp kẹo được
nhồi nhét trên đại lộ Nevsky, không một dãy nhà hộp năm tầng được xây quấy quá
bên bờ kênh Griboedov. Không một kiến trúc sư nào, bất tài và lắm thế lực nhất,
có thể dùng mọi ảnh hưởng để nhận giấy phép xây dựng trên khu vực gần Sông Đen
và khu trung tâm Okhta.
Chúng ta sửng sốt - vẻ tráng lệ huy hoàng nhất của
ta là đây! Một niềm sảng khoái được lang thang trên những đại lộ ấy. Nhưng để
tạo dựng nên vẻ đẹp này, bao người dân Nga đã từng nghiến răng rủa thầm và mục
xương trong các đầm lầy âm u. Biết bao xương máu của tiền nhân đã được nén
chặt, hòa quyện, hóa đá trong những cung điện đủ màu - vàng, nâu, sô cô la,
xanh lục.
Thật khủng khiếp khi nghĩ về chuyện: những cuộc đời
vô vọng trắc trở của chúng ta, những bùng nổ mâu thuẫn của chúng ta, tiếng rên
siết của người bị hành quyết và nước mắt của những người vợ - tất cả những điều
ấy rồi sẽ trôi vào quên lãng hoàn toàn? tất cả những điều ấy cũng để hiến dâng
cho cái đẹp hoàn hảo vĩnh hằng này chăng?
Nhà thờ Thánh Isaac Dalmatia tại St. Peterburg |
9. Quả Cầu Bông
Trong sân nhà chúng tôi, một cậu bé dắt chú chó nhỏ
tên "Quả Cầu Bông" với sợi dây xích - cậu nuôi nó từ hồi còn là một
chú cún bé tẹo.
Một
bận, tôi đem cho nó ít mẩu xương gà, còn nóng
hổi và thơm phức, vừa lúc đó, cậu bé thả chú chó đáng thương chạy rông
đôi
chút. Tuyết dày và xốp phủ kín sân, Quả Cầu Bông nhảy nhót tung tăng như
chú thỏ rừng, khi chân trước, lúc chân sau, từ góc này sân sang góc kia
sân, chúi
mõm vào tuyết.
Nó chạy đến chỗ tôi, lông ướt bù xù, nhảy quanh,
hít hít mẩu xương, rồi lại vụt chạy, tuyết ngập tới bụng!
Chả cần xương của ông, nó nói, tôi chỉ muốn tự do!
[1] Segden - hồ giữa rừng, thuộc
làng Solotcha, cách thành phố Ryazan nửa giờ đi xe. (Tất cả các chú thích đều của
người dịch).
[2] Nhân vật độc ác trong cổ tích
Nga.
[3] Ingvar Igorevich (?-1235), Công
tước thành Ryazan, năm 1217 sáu công tước thành Ryazan được anh em nhà Glev
Vladimirovich (là anh em họ) mời đến dự tiệc và bị giết chết tại đó, một mình
ông may mắn thoát chết nhờ không đi dự tiệc.
[4] Đơn vị đo cũ của Nga, 1 dặm
(versta) = 1,067km.
[5] Kha hãn Bạt Đô (Batu)
(1209?-1256), cháu nội Thành Cát Tư Hãn, năm 1242 đã xâm lăng châu Âu.
[6] Yakov Petrovich Polonsky
(1819-1898), nhà thơ, nhà văn Nga.
[7] Mô-tip trong Kinh Thánh - chương
Sáng Thế Kí, thế giới được sáng tạo.
[8] Belala-Kaya (độ
cao 3861m) và
Juguturlyuchat (độ
cao 3921m) là những đỉnh núi phía Tây dãy Kavkaz lớn.
[9] Đế quốc La Mã ở Đông Âu (Eastern
Roman Empire).
[10] Tên đầy đủ là Thánh đường vinh
danh Thánh Isaac Dalmatia, được xây dựng trong 40 năm (1818-1858) theo thiết kế
của kiến trúc sư người Pháp Auguste Ricard de Montferrand (1786-1858), trên một
diện tích 4000m2, với chiều cao 101,5m, mái vòm có đường kính ngoài 25,8m, đường
kính trong 22,15m.
[11] Karl Ivanovich Rossi (tên Í là
Carlo di Giovanni Rossi) (1775-1849), kiến trúc sư người Nga gốc Í, tác giả của
nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng tại Saint Peterburg.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét