Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Ngôi nhà của Matryona (I)

Phạm Ngọc dịch từ nguyên tác tiếng Nga trong "Alexander Solzhenitsyn toàn tập" (30 tập), Tập 1 - Truyện ngắn & Đoản văn, Nxb "Thời đại" Moskva, 2006.
- Матрёнин двор
- Случай на станции Кочетовка
Giấy Vụn xuất bản lần thứ nhứt tại Sài Gòn, khổ 13x20,5cm.
In xong & tặng giang hồ 11/12/2011
Lời nói đầu
Nhân kỉ niệm sinh nhật lần thứ 93 của nhà văn Nga đoạt giải Nobel năm 1970 - Alexander Solzhenitsyn (11/12/1918 - 3/8/2008), chúng tôi dịch lại từ nguyên tác tiếng Nga hai truyện ngắn của ông, lần đầu ra mắt công chúng trên tạp chí "Thế giới mới" số tháng Giêng 1963: "Ngôi nhà của Matryona" và "Trường hợp tại nhà ga Kochetovka".
Bản thảo truyện ngắn "Ngôi nhà của Matryona" được tác giả trao cho Alexander Tvardovsky (1910-1971), khi đó là Tổng biên tập tạp chí "Thế giới mới", vào ngày 26/12/1961. Tuy nhiên, sau cuộc họp nội bộ, Ban biên tập đã kết luận chưa phải thời điểm thích hợp để đăng truyện ngắn vào số tháng Giêng 1962. Đúng một năm sau "Ngôi nhà của Matryona" đã được phép đăng trên "Thế giới mới" cùng với "Trường hợp tại nhà ga Kochetovka" dưới nhan đề chung là "Hai truyện ngắn". Hơn 100 ngàn bản của số báo này đã được bán hết sạch!
Tựa đề "Ngôi nhà của Matryona" do Tvardovsky đề nghị sửa lại từ tên truyện nguyên thủy "Xóm làng không tồn tại thiếu con người thánh thiện" - từ một câu cách ngôn dân gian Nga; ông phát biểu: "Tựa đề không cần thiết phải mang tính giáo huấn như thế!". Solzhenitsyn trả lời tương đối nhẹ nhàng: "Thôi, cứ coi như tôi không may với cái tựa đề ở chỗ các ông!".
Năm 1989, truyện ngắn này được đăng lại trên tạp chí "Ngọn lửa nhỏ" số 23 & 24 với số lượng 3.350.000 bản!
"Trường hợp tại nhà ga Kochetovka", theo lời tác giả, được viết dựa trên một trường hợp có thật tại nhà ga Kochetovka vào năm 1941 do người bạn của ông (Vlasov), khi đó làm ở Ban chỉ huy quân vận, thuật lại.
Vào tháng 12-1962 "Trường hợp tại nhà ga Kochetovka"được trích đăng trên báo "Sự thật", cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Liên Sô (vì vậy, tác phẩm này chưa lần nào bị "lên thớt" phê bình của báo chí Sô-viết, bởi vì "Sự thật" thì làm sao sai được!).
Lúc đầu, Ban biên tập "Thế giới mới"và tác giả cũng thảo luận để đặt lại tựa cho truyện ngắn này, một số nhan đề như "Chiếc mũ lưỡi trai xanh" và "Trong ca trực" được đề xuất; tuy nhiên cuối cùng tên truyện vẫn được giữ nguyên, ngoại trừ một thay đổi nhỏ: "Kochetovka", tên thật của nhà ga, được đổi thành "Krechetovka" vì lí do tế nhị là trùng với tên của trưởng ban biên tập "Thế giới mới" và "Tháng Mười" lúc đó là Kochetov; ngoài ra, tất cả các địa danh khác trong truyện đều được giữ nguyên.
Người dịch
Ngôi nhà của Matryona
Tại cột cây số 184 dọc theo tuyến đường sắt từ Moskva đi Murom và Kazan, từ hơn nửa năm nay, các đoàn tàu đều chạy chậm lại, từ từ như mò mẫm. Hành khách ai nấy đều dán mũi vào cửa kính và dồn ra phía chỗ trống đầu toa: sửa đường à? tàu có bị muộn không?
Nhưng không. Qua khỏi giao lộ, tàu dần dần chạy nhanh trở lại, hành khách đều trở về chỗ ngồi.
Chỉ có tài công và thợ máy là biết chuyện gì đã xảy ra.
Và cả tôi nữa.
1
Mùa hè 1956, từ một miền hoang mạc cát bụi nóng bỏng, tôi trở về Nga, không chủ đích. Chẳng một xó xỉnh nào có người chờ đợi hay gọi tôi về, tôi đã không được quay lại đây cả chục năm rồi. Điều tôi muốn bây giờ chỉ còn là được đặt chân lên dải đất miền Trung nước Nga, không nắng nóng, cây lá xào xạc trong rừng. Tôi muốn được chìm sâu và mất dạng ngay trong lòng đất Nga... nếu như điều ấy là có thể!
Một năm trước, ở phía bên này dãy Ural, tôi chỉ có thể được thuê để đẩy xe thồ là cùng. Người ta không thuê tôi làm việc ở công trường xây dựng dù chỉ với chức danh thợ điện. Trong khi đó tôi muốn làm nghề dạy học. Những người hiểu biết bảo tôi không nên phí tiền mua vé, vì chuyến đi sẽ chẳng đem lại lợi ích gì.
Nhưng hình như một điều gì đó bắt đầu thôi thúc. Khi bước lên cầu thang Sở giáo dục tỉnh Vladimir và hỏi thăm Phòng tổ chức cán bộ, tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy nhân viên ở đây không còn ngồi trong những căn phòng sau cánh cửa bọc da đen, mà lại ngồi sau những vách ngăn bằng kiếng, i hệt như ở tiệm thuốc tây. Tôi rụt rè tiến đến một ô cửa, nghiêng người xuống hỏi:
- Xin lỗi, ở đây có cần giáo viên toán để dạy ở một vùng xa tuyến đường sắt không? Tôi muốn định cư luôn ở đó.
Người ta săm soi từng chữ trên giấy tờ của tôi, chạy tới chạy lui hết phòng này sang phòng khác, rồi gọi điện đi đâu đó. Dù sao, đây cũng là một trường hợp hiếm có, vì thường thì ai cũng xin việc ở thành phố, thành phố lớn càng tốt. Cuối cùng, người ta cũng bố trí việc làm cho tôi ở một nơi hẻo lánh mà nội cái tên "Đồng cỏ cao nguyên" cũng đủ làm lòng tôi vui sướng.
Thật xứng đáng với cái tên của nó. Trên một quả đồi giữa những thung lũng nhỏ, xa xa nhấp nhô những ngọn đồi khác, với rừng cây bao quanh, một cái ao và một con đập, Đồng cỏ cao nguyên đích thực là nơi mà người ta có thể thấy sống hay chết cũng chẳng có gì đáng phàn nàn! Tôi ngồi rất lâu trên một gốc cây trong cánh rừng thưa, và thầm ước phải chi mình có thể không cần ăn uống, miễn sao được ngồi đây lắng nghe tiếng cành lá xào xạc trong đêm vắng, tiếng máy thu thanh không bao giờ vọng đến, và mọi âm thanh khác trên cõi đời này đều im bặt.
Tiếc thay, không ai bán món gì có thể ăn được trên vùng đất này, người ta cũng không làm bánh mì. Cả làng phải tha thực phẩm trong những bao tải mãi tận trên tỉnh lị về.
Cực chẳng đã, tôi phải quay lại Phòng tổ chức để năn nỉ xin xỏ trước ô cửa. Thoạt tiên, người ta chẳng thèm nói với tôi. Nhưng sau đó, lại chạy tới chạy lui từ phòng này sang phòng khác, rồi điện thoại, rồi tiếng bút sột soạt trên giấy, rồi đóng dấu cái cộp trên quyết định của tôi: "Torfoproduct".
Torfoproduct[1]? Lạ thật, đến Turgenev cũng chẳng nghĩ nổi người ta có thể "chế tạo" ra một cái tên tiếng Nga như thế!
Nhà ga Torfoproduct là một dãy nhà tạm bợ bằng gỗ màu xám cũ kĩ, ở đó treo một bảng thông báo nghe rất nghiêm: "Chỉ lên tàu phía bên sân ga!", trên tấm bảng nguệch ngoạc thêm dòng chữ kẻ bằng đầu đinh nhọn "Và không cần vé!". Còn tại quầy vé người ta cũng thấy dòng chữ tương tự, hài hước đến buồn thảm, nhưng lại được khắc bằng dao: "Hết vé!". Sau này tôi mới thấm thía í nghĩa của những dòng chữ viết thêm. Torfoproduct là nơi đi dễ khó về.
Nơi đây trước kia từng là rừng rậm không bước chân người, chưa bị tàn phá qua thời kì cách mạng. Nhưng rồi sau đó những công nhân mỏ than và xã viên nông trang tập thể kế cận đến đây để đốn gỗ. Chủ tịch nông trang, Gorshkov, đã đốn sạch nhiều hecta cây rừng để bán qua Odessa kiếm lợi, từ đó đưa nông trang đi lên, còn ông ta thì được nhận danh hiệu Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa.
Ngôi làng mọc lên không theo một trật tự gì giữa vùng trũng đầm lầy than bùn - những dãy nhà giống hệt nhau, tô trét nham nhở, i như vào thời những năm 30, mặt tiền được chạm khắc với hàng hiên gắn kính, kiểu những năm 50. Nhưng bên trong nhà tuyệt nhiên không có một vách ngăn nào cao đến trần, vì thế tôi không thể kiếm được một phòng trọ với bốn bức tường thực sự.
Ống khói nhà máy tỏa nghi ngút khắp làng. Một tuyến đường sắt hẹp xuyên qua làng, từ đầu này tới đầu kia, với mấy cái đầu máy con con, cũng khói phun mù mịt, còi rúc inh tai, ì ạch kéo những toa hàng chở đầy than bùn nâu sẫm, từng tấm lớn hay nhỏ như viên gạch. Tôi có thể đoán mà không sợ nhầm là chiều chiều một máy phóng thanh treo trên cửa câu lạc bộ sẽ gào hết công suất, những gã say rượu sẽ lang thang trên đường rồi cuối cùng những nhát dao sẽ kết liễu cuộc vui.
Đấy, giấc mơ về một vùng nhỏ bé và iên tĩnh trên đất Nga đã đưa tôi đến đâu! Giờ đây tôi mới thấm thía dù sao nơi mà tôi rời bỏ ít nhất cũng còn có một căn nhà bằng đất có cửa trông ra sa mạc, đêm đêm hứng làn gió mát, và trên đầu chỉ có bầu trời đầy sao.
Nằm trên băng ghế ở sân ga, tôi không tài nào dỗ được giấc ngủ, và đến tờ mờ sáng tôi lại lang thang khắp làng. Bấy giờ tôi mới khám phá ra là có một cái chợ tí hon, và chỉ có một người đàn bà duy nhất vào giờ này đứng bán sữa. Tôi mua một chai và uống ngay tại chỗ.
Giọng nói của chị ta làm tôi ngạc nhiên hết sức. Không hẳn nói mà như là hát, khe khẽ và dịu dàng, và những lời phát ra từ miệng chị gợi trong tôi một nỗi buồn Á Đông:
Ơi người khách lạ phương nao
Uống đi cho thỏa khát khao tâm hồn
[2]
- Còn chị từ đâu đến? - tôi vui vẻ hỏi lại.
Rồi tôi được biết xung quanh đây không phải chỉ có mỏ than, qua khỏi đường xe lửa là đến một ngọn đồi nhỏ, phía sau đồi là một ngôi làng có tên Talnovo. Theo người ta kể lại thì làng này đã có từ lâu, từ thời còn cô tiểu thư di-gan, và rừng rậm bao phủ khắp vùng. Rồi xa hơn nữa là một vùng nhiều làng mạc: Chaslitsy, Ovintsy, Spoudni, Shevertni, Shestimirovo, tất cả đều heo hút, cách xa đường sắt và đi về hướng bờ hồ.
Những cái tên đó như một ngọn gió lành, hứa hẹn với tôi miền đất Nga cổ kính.
Tôi liền đề nghị với người mới quen sau khi chợ tan dẫn tôi đến Talnovo, và tìm giúp tôi một nơi để ở trọ.
Tôi mà ở trọ thì chủ nhà cũng được hưởng ưu đãi: ngoài lương ra nhà trường còn cấp thêm cho tôi một xe than để sưởi ấm mùa đông. Vẻ lo lắng chợt hiện lên khuôn mặt của chị, thay cho vẻ dịu dàng lúc trước. Nhà chị không còn dư chỗ (chị và chồng còn phải nuôi dưỡng mẹ già), thế nên chị dẫn tôi đến nhà mấy người bà con của chị, hết nhà này đến nhà nọ. Nhưng không đâu có phòng riêng cả, vừa chật chội vừa ồn ào.
Cứ thế rồi chúng tôi đến một nơi có con suối gần khô cạn, trở thành một vũng nhỏ với chiếc cầu con con. Chưa có chỗ nào trong làng mà tôi thấy thơ mộng như ở đây: vài ba cây liễu, một căn nhà xiêu vẹo, bầy vịt đang lội dưới ao cùng mấy con ngỗng vừa rũ lông vừa leo lên bờ.
- Thôi, chỉ còn cách là đến nhà Matryona - người dẫn đường của tôi cũng cảm thấy mệt mỏi rồi - Có điều là không được sạch sẽ cho lắm, nhà cửa tuềnh toàng mà bà ấy lại bệnh nữa.
Ngôi nhà của Matryona cách đó không xa, bốn khung cửa sổ nằm ngay hàng bên phần râm mát ở phía sau, nóc nhà lợp bằng vỏ cây chia thành hai mái, mỗi bên trổ một ô cửa nhỏ ở tầng sát mái. Nhà không thấp - khoảng 18 thân gỗ tròn[3], tuy nhiên mái nhà đã mục, các súc gỗ làm vách nhà và cổng, xưa kia chắc phải bệ vệ lắm, nay đã ngả sang màu xám xịt vì quá cũ, ngay cả lớp vỏ bên ngoài cũng đã loang lổ rất nhiều.
Cánh cổng đã cài then, nhưng người dẫn đường của tôi, thay vì gõ cửa, đã luồn tay xuống phía dưới và kéo chốt cửa qua một bên, đó chỉ là biện pháp thô sơ để ngăn gia súc xổng chuồng và người lạ. Khoảnh sân nhỏ không có mái che, nhưng trong nhà gồm nhiều gian liên kết với nhau. Qua khỏi cửa ra vào là một cầu thang dẫn lên nhiều sàn gác thênh thang còn cách mái khá xa. Bên trái là một cầu thang khác dẫn lên "căn phòng lớn" biệt lập, không có lò sưởi, vài bậc thang khác lại dẫn xuống một cái gác xép dùng làm kho chứa đồ. Phía bên phải là nhà chính với tầng sát mái và tầng hầm.
Ngôi nhà này được cất lên lâu lắm rồi, rất chắc chắn, cho một gia đình đông người, nhưng giờ đây người duy nhất sống ở đó là một phụ nữ tuổi ngoài sáu mươi.
Khi tôi bước vào thì thấy bà đang nằm trên bệ lò sưởi kiểu Nga, sát cửa ra vào, trên người đắp những mảnh vải rách rưới sậm màu khó đoán được là loại gì, nhưng chắc chắn chẳng có chút giá trị, kể cả đối với đời sống dân lao động.
Trong ngôi nhà gỗ rộng lớn cũ kĩ, mà phía bên có cửa sổ tương đối còn tươm tất nhất, ngổn ngang những chậu gốm và thùng gỗ trồng những cây ficus, đặt trên mấy chiếc ghế đẩu và tấm phản. Những chậu cây ấy, tuy là loài vô tri nhưng ít nhất cũng có sức sống, đã phần nào lấp đi sự cô độc của bà chủ nhà. Chúng phát triển tự nhiên, hứng tất cả những tia nắng iếu ớt lọt vào từ hướng Bắc. Và trong cái ánh nắng sắp tắt đó, gương mặt tròn tròn của bà chủ nhà, hơi khuất sau ống khói lò sưởi, càng tăng thêm vẻ vàng vọt và bệnh hoạn. Đôi mắt mờ đục của bà cho thấy bệnh tật đã làm bà kiệt quệ.
Trong khi nói chuyện với tôi, bà vẫn nằm bẹp trên lò sưởi, đầu không lót gối, hướng về phía cửa nơi tôi đang đứng. Bà không tỏ vẻ vui mừng chút nào khi biết mình sắp có được một khách trọ, mà chỉ than thở về căn bệnh quái ác mà cơn đau vừa mới hành hạ bà xong: không phải tháng nào cũng lên cơn đau, nhưng cứ mỗi lần nó trở lại thì:
-... nó hành hạ tôi hai ba ngày liền, đến mức tôi không đứng dậy nổi, làm sao dọn dẹp, nấu ăn cho ông được, chứ tôi có tiếc gì cái nhà đâu, ông ở cũng tốt thôi...
Thế rồi bà liệt kê cho tôi một lô một lốc những căn nhà khác có thể cho tôi nhiều tiện nghi và iên tĩnh hơn, và bà muốn tôi đi một vòng xem thử. Nhưng tôi hiểu là số phận đã an bài cho tôi phải trọ lại ngôi nhà gỗ u ám này, với cái gương soi mờ đục không còn phản chiếu được gì nữa, với hai tấm bích chương giá chừng một vài rúp, màu sắc lòe loẹt cổ động về sách mới và mùa thu hoạch, được dán lên tường để trang trí. Điều tôi hài lòng nhất ở đây là do nghèo Matryona không có radio, và vì sống cô độc bà chẳng trò chuyện với ai.
Và mặc dù Matryona Vasilyevna buộc tôi phải đi thêm một vòng quanh làng, nhưng đến khi tôi trở lại lần thứ nhì bà vẫn cố thoái thác:
- Nhưng lỡ một ngày nào đó tôi không dọn dẹp, nấu nướng được thì ông sẽ làm sao? - lần này bà cũng cố đứng dậy được để tiếp tôi, và trong mắt bà thoáng hiện vẻ hài lòng khi thấy tôi trở lại.
Chúng tôi thỏa thuận về tiền thuê nhà và số than nhà trường cung cấp.
Sau này tôi mới biết, trong nhiều năm qua Matryona Vasilyevna không được lãnh một xu nào, vì bà không có tiền hưu trí. Những người thân giúp bà rất ít. Còn ở nông trang thì bà làm việc không lương mà chỉ lãnh những thẻ gỗ, tượng trưng cho ngày công lao động và được đánh dấu vào một cuốn sổ nhàu nát của người phụ trách chấm công.
Và thế là tôi ở trọ nhà Matryona Vasilyevna. Chúng tôi không ngăn phòng riêng. Giường của bà ở góc cửa ra vào, cạnh lò sưởi; còn tôi kê một cái giường xếp bên cạnh cửa sổ, và tôi dẹp gọn mấy chậu ficus yêu quý của Matryona để đặt một cái bàn nhỏ cạnh một cửa sổ khác. Trong làng đã có điện - người ta đã chạy đường dây điện vào làng từ thị trấn Shatura vào những năm 20. Báo chí thời đó thường viết "ngọn đèn của Ilich", còn các bác nông dân lại trợn to mắt lên gọi: "Chúa tể ánh sáng!"[4].
Có thể những người khá giả trong làng cho rằng ngôi nhà của Matryona không phải là nơi ở lí tưởng, nhưng đối với chúng tôi - bà và tôi, thì lại quá tốt cho mùa thu và mùa đông năm ấy: mái nhà chưa bị dột vì mưa và những cơn gió lạnh buốt chưa quét sạch hết hơi ấm tỏa ra từ lò sưởi, trừ những lúc gần sáng, nhất là khi gió lùa vào từ phía nhà bị hỏng.
Ngoài Matryona và tôi, trong nhà còn có một con mèo, rất nhiều chuột và gián.
Con mèo đã khá già, nhưng điểm đáng chú í nhất là nó thọt một chân. Vì lòng thương hại, Matryona đã nuôi nó và từ đó nó trở thành một thành viên trong gia đình. Dù nó vẫn còn đủ bốn chân nhưng một chân rất iếu nên nó đi khập khiễng, dặt dẹo. Mỗi lần phóng từ lò sưởi xuống sàn, tiếng động khi chạm đất không "nhẹ như mèo", mà ngược lại rất mạnh, ba cái chân nện xuống nền nhà cùng một lúc: "bịch" một cái! nên lúc đầu chưa quen tôi giật bắn mình. Nó phải đặt ba chân xuống cùng một lúc để đỡ cho cái chân thứ tư.
Tuy nhiên, nếu trong nhà lắm chuột, không phải là vì cô thọt không biết bắt chuột: nàng ta phóng nhanh như chớp vào góc nhà và quay ra với một chú tí ngoạm giữa hai hàm răng. Nếu bọn chuột thoát được móng vuốt của mèo là vì trước kia, vào thời đời sống còn khá giả, các bức vách đều được trang trí bằng cách dán lên lớp giấy dán tường màu xanh lá có dợn sóng, và không phải chỉ có một lớp mà đến năm lớp. Những lớp giấy dính chắc vào nhau, và nhiều chỗ bị tróc khỏi vách tạo thành một lớp da bên trong căn nhà. Giữa các súc gỗ tròn và lớp da bằng giấy dán tường, bọn chuột đã làm những lối đi và sột soạt trong đó một cách hỗn láo, thậm chí chúng còn chạy lên đến tận trần nhà. Cô mèo giận dữ đưa mắt dõi theo tiếng sột soạt của đám chuột nhưng đành bất lực không sao tóm được chúng.
Đôi khi nó cũng ăn gián, nhưng sau đó lại bị bệnh. Nơi duy nhất mà bọn gián còn tôn trọng là ranh giới bức vách ngăn cách miệng lò sưởi và nhà bếp với căn phòng bên trong. Chúng không bao giờ xâm nhập vào trong phòng cả. Trái lại, ở bếp thì lúc nhúc, ban đêm có khi tôi xuống uống nước, vừa bật đèn lên thì thấy khắp sàn nhà, trên ghế dài và ngay cả trên bức tường, cứ như một tấm thảm màu nâu sẫm, nhúc nhích không ngừng. Tôi mang hàn the từ phòng thí nghiệm ở trường về, rồi nhào với bột để làm thuốc diệt gián. Bọn gián bắt đầu bớt dần, nhưng Matryona lại sợ con mèo ăn phải chất độc ấy. Thế là chúng tôi ngưng chiến dịch diệt gián và chúng lại sinh sôi nảy nở như trước.
Ban đêm khi Matryona đã ngủ, và tôi ngồi làm việc sau bàn, tiếng chuột chạy rúc rích thật nhanh sau lớp giấy dán tường hòa với tiếng sột soạt, không lúc nào ngớt của bọn gián phía sau bức vách tạo nên âm thanh như tiếng sóng đại dương rì rầm từ xa xa vọng lại. Rồi tôi cũng quen đi, vả lại tiếng động đó thật ra không có gì xấu cả, trong đó không có sự lừa dối. Tiếng rì rào ấy chỉ nói lên sự sống của chúng mà thôi.
Và tôi cũng quen dần với cô gái trong tấm bích chương trên tường, lúc nào cũng chìa ra cho tôi những cuốn sách của Belinsky, Panferov và cả chồng sách khác không biết thuộc thể loại gì, nhưng được cái cô ta hoàn toàn im lặng. Tóm lại, tôi đã quen với tất cả mọi thứ trong ngôi nhà của Matryona.
Matryona thức dậy khoảng bốn, năm giờ sáng. Chiếc đồng hồ treo tường, bà mua cách đây hai mươi bảy năm ở cửa hàng thương nghiệp hợp tác xã, luôn luôn đi sớm, nhưng điều đó không làm bà lo lắng, miễn sao nó đừng chạy chậm và đừng làm bà bị trễ buổi sáng là được rồi. Bà bật đèn sau bếp lên và rón rén, lịch sự, cố không gây tiếng động. Bà nhóm bếp lò, ra vắt sữa dê (gia súc thì bà chỉ có bấy nhiêu: một con dê cái với bộ lông trắng bẩn và cặp sừng cong queo), rồi bà đi lấy nước nấu ăn trong ba cái soong nhỏ: một cho tôi, một cho bà và một cho con dê. Bà lấy ở tầng hầm ra một củ khoai nhỏ nhất cho con dê, củ vừa vừa thì dành cho bà, còn cho tôi - củ lớn nhất cỡ bằng quả trứng gà. Nói về củ lớn mới nhớ đến khoảnh vườn phủ đầy cát của bà, từ trước thế chiến đến nay chưa khi nào được bón phân, chỉ trồng khoai, hết mùa này sang mùa khác, và chưa bao giờ đào được một củ cho ra hồn.
Buổi sáng tôi hầu như không nghe bà làm việc. Tôi ngủ lâu lắm và thức dậy cùng lúc với ánh nắng trễ nãi của những ngày đông giá. Tôi vươn vai, thò đầu ra khỏi chăn và chiếc áo lông, thêm một cái áo bông từ thời còn trong trại đắp trên chân, phía dưới là một cái túi độn đầy rơm, chúng giữ ấm cho tôi ngay cả trong những đêm mà giá lạnh từ phương Bắc lùa vào những cánh cửa sổ lung lay của chúng tôi trong trại. Nghe tiếng động khe khẽ và kín đáo của bà sau bức vách, tôi nói vọng sang bằng một giọng chậm rãi:
- Chào bà Matryona Vasilyevna!
Và đáp lại lời chào của tôi bao giờ cũng là những lời nói ân cần khẽ vang lên từ sau bức vách, luôn bắt đầu bằng một loạt tiếng ro ro trầm trầm như giọng của người bà trong chuyện cổ tích:
- Hmm... mmm, chào ông!
Rồi một lát sau:
- Bữa điểm tâm của ông còn nóng hổi đây!
Bữa điểm tâm, dù bà không nói ra, nhưng rất dễ đoán: đó là khoai luộc cả vỏ, hay súp khoai tây, hay cháo nấu bằng lúa mạch (vào năm đó không thể mua được thứ gì khác ở Torfoproduct, ngay cả lúa mạch cũng phải giành giựt lắm mới mua được, là thứ thực phẩm rẻ nhất nên người ta dùng để nuôi heo và mua từng bao). Không bao giờ bà nêm muối vừa miệng cả, lại thường bị khét, cho nên khi ăn xong thế nào cũng bị dính một lớp trên vòm miệng, trên lợi, và gây chứng đầy hơi, ợ nóng.
Nhưng đó không phải lỗi của Matryona: ở Torfoproduct không có bơ, bơ thực vật thì phải giành nhau mới mua được, chỉ có mỡ động vật hỗn hợp là sẵn, bán tự do. Ngoài ra, tôi thấy cái bếp lò Nga không tiện lợi cho việc nấu ăn lắm: người nấu ăn không trông thấy những gì đang nấu, lửa phân phối không đều xung quanh lò. Song lí do mà cha ông chúng ta vẫn còn duy trì và sử dụng nó từ thời kì đồ đá đến tận bây giờ là khi ta đốt lò từ sáng sớm, nó sẽ hâm nóng suốt ngày đồ ăn thức uống của cả người lẫn gia súc, và còn có thể sưởi ấm cho giấc ngủ.
Tôi ngoan ngoãn ăn bất cứ món gì bà nấu cho tôi, và mỗi khi cắn phải một vật lạ như sợi tóc, mảnh than vụn, chân gián... tôi chỉ lặng lẽ bỏ ra mà không tỏ vẻ than phiền. Lòng dạ nào mà phiền trách Matryona! Chẳng phải bà đã cảnh báo trước: "Lỡ một ngày nào đó tôi không dọn dẹp, nấu nướng được thì ông sẽ làm sao?".
- Cảm ơn bà - tôi nói rất chân tình.
- Cảm ơn gì hả ông? Vì cái mà ông có quyền hưởng à? - bà khiến tôi phải đầu hàng không trả lời được với một nụ cười rạng rỡ. Rồi, với cái nhìn hồn nhiên qua đôi mắt xanh nhạt, bà hỏi: - Chiều nay ông muốn ăn món gì?
Chiều nay có nghĩa là bữa tối của tôi đấy. Mỗi ngày tôi chỉ ăn có hai bữa như khi ở ngoài mặt trận. Xin bà ấy cho mình ăn món gì chiều nay nhỉ? Khoai luộc cả vỏ hay súp khoai tây, hay còn chọn lựa nào khác chăng?
Tôi thích nghi được, vì đời đã dạy tôi "ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn", phải biết nhìn í nghĩa của cuộc sống đời thường qua cái gì khác hơn là qua miếng ăn. Đối với tôi, nụ cười trên khuôn mặt tròn của bà còn có í nghĩa hơn nhiều. Cho đến khi tôi kiếm đủ tiền để mua được một chiếc máy ảnh, tôi cố "chộp" cho được nụ cười ấy nhưng chưa bao giờ được toại nguyện. Cứ mỗi lần thấy con mắt lạnh lùng của ống kính chĩa về mình là bà lại lấy một vẻ mặt căng thẳng hay nghiêm nghị kiêu hãnh.
Chỉ mỗi một lần duy nhất tôi thành công, đó là lúc bà mỉm cười vì một í nghĩ vu vơ nào đó, khi nhìn ra đường qua khung cửa sổ.
Mùa thu năm ấy, Matryona gặp rất nhiều phiền toái. Luật mới về chế độ lương hưu vừa ban hành và mấy bà hàng xóm đã xui bà phải đòi cho được tiền hưu trí. Tứ cố vô thân, nhất là từ khi sức khỏe của bà bắt đầu suy iếu trông thấy, bà mất việc làm ở nông trang. Đó là cả một chuỗi bất công cho bà: bà bị bệnh nặng nhưng không được coi là tàn phế; bà đã làm việc cho nông trang suốt một phần tư thế kỉ, nhưng vì không phải như làm việc ở nhà máy, bà không được hưởng lương hưu theo chế độ, mà chỉ có thể xin được cho chồng bà thôi, nghĩa là do mất người bảo trợ nuôi dưỡng. Nhưng bà đã mất chồng từ mười hai năm nay, ngay từ lúc chiến tranh mới bắt đầu, và bây giờ nào phải dễ dàng gì mà xin được tất cả giấy chứng nhận của những nơi ông đã từng làm việc, về thâm niên và về mức lương. Xin cho được mấy cái chứng nhận đó là cả một vấn đề, rồi còn phải xin người ta ghi vào mức lương của ông, dù có là 300 rúp mỗi tháng; rồi còn phải xin xác nhận bà sống một mình và không được ai giúp đỡ; rồi chứng thực ngày sinh tháng đẻ của bà; rồi mang tất cả đến cơ quan bảo trợ xã hội; rồi mang về để sửa lại những điểm bất hợp lí; rồi lại mang đến một lần nữa. Sau đó còn phải đi hỏi thăm xem người ta có đồng í cấp lương hưu hay không...
Các thủ tục ấy xem ra còn nhiêu khê gấp bội, vì cơ quan bảo trợ xã hội cách xa Talnovo hai mươi cây số về hướng Đông, Sô-viết nông thôn cách mười cây số về hướng Tây, còn ủy ban xã thì cách khoảng một giờ đi bộ về hướng Bắc. Người ta bắt bà chạy đôn chạy đáo hết văn phòng này sang văn phòng khác trong suốt hai tháng trời, chỉ để sửa một dấu chấm hay một dấu phẩy. Mỗi một lần đi về là mất cả ngày trời. Đến Sô-viết nông thôn thì nhằm bữa ông thư kí đi vắng, không có mặt nghĩa là không có mặt, chuyện thường ngày ở huyện mà. Hôm sau lại đến. Lần này thì có ông thư kí, nhưng lại không có con dấu. Lại đi lần thứ ba. Rồi thì lần thứ tư, vì họ kí nhầm lên những giấy không cần kí, còn giấy cần kí thì lại không kí vì mắt kém, một phần nữa là vì giấy tờ Matriona mang đến nhiều quá, cả xấp dày cộp.
- Họ hành hạ tôi, Ignatich à, - bà than thở với tôi sau những trận đi đi về về chẳng được tích sự gì. - Tôi lo quá ông ạ!
Nhưng vầng trán của bà cũng chẳng sa sầm lâu. Tôi để ý thấy bà có một phương pháp rất hữu hiệu để lấy lại tinh thần, đó là làm việc. Ngay sau đó, bà vớ cái cuốc để ra vườn đào khoai, hoặc bao tải cắp nách đi mót than, hoặc cõng túi vào rừng hái trái. Thay vì phải luồn cúi ở những nơi cơ quan hành chính công quyền, bà đi tìm cái ăn trong rừng. Thế rồi, gò lưng dưới gánh nặng, Matryona trở về nhà với vẻ hớn hở bằng lòng, và tìm lại được nụ cười nhân hậu.
- Giờ này mà tôi kiếm được bây nhiêu đây, Ignatich, tôi biết chỗ rồi, - í bà nói đến chỗ than nhặt được. - Chỗ này tốt quá, thật là may hết sức!
- Matryona Vasilyevna, bộ than của tôi không đủ sao? Cả một xe mà!
- Ối dào! tha...a...an của ông! một lần như thế này, rồi một lần như thế này nữa thì may ra mới đủ. Đến mùa đông gió vù vù qua cửa sổ thì có mà đốt lò nóng cách mấy cũng vèo hết. Hồi trước chúng tôi đi nhặt được nhiều lắm! Cỡ tháng này ít nhất cũng được ba xe rồi. Nhưng giờ người ta bắt đấy, có một bà trong xóm bị lôi ra tòa rồi đó.
Quả đúng như lời bà nói. Hơi thở đe dọa của mùa đông bắt đầu trỗi dậy, làm thắt cả tim. Rừng thì bao phủ quanh làng mà chẳng kiếm đâu ra củi để đốt lò sưởi. Đâu đâu cũng nghe tiếng rền rĩ của máy đào máy xúc trong mỏ than, nhưng than lại không được bán cho dân làng, mà chỉ để cung cấp cho nhà nước và những người có chức có quyền, ngoài ra còn mấy ông giáo, mấy ông thầy thuốc và công nhân nhà máy - mỗi người một xe. Dân ở Talnovo không có quyền mua than, và cũng không có quyền xin xỏ. Chủ tịch nông trang đi khắp làng, nhìn dân làng với vẻ khi thì nghiêm khắc, khi thì dễ dãi, nói với họ đủ thứ chuyện trên đời, ngoại trừ chuyện nhiên liệu. Lí do là ông ta đã đủ than dự trữ rồi. Còn mùa đông thì chẳng chừa một ai.
Đại khái thế, ngày xưa người ta vào rừng trộm củi của lãnh chúa, còn ngày nay trộm than của liên hiệp. Mấy chị đàn bà tụm năm tụm mười để lấy thêm can đảm đi mót than giữa ban ngày. Vào mùa hè người ta khai thác than ở khắp nơi và xếp thành từng dãy để phơi khô. Có cái hay là than vừa đào ra không thể mang đi ngay được, phải phơi ở đó cho đến mùa thu, hoặc đôi khi đến trận tuyết đầu mùa, nếu đường chưa đi được hoặc xí nghiệp liên hiệp chưa kịp hốt về. Và trong thời gian đó, các bà đi nhặt trộm về dùng. Họ bỏ vào bao mang về mỗi lần năm, sáu miếng nếu còn ướt, và khoảng một chục nếu đã khô. Mỗi một bao như vậy (nặng khoảng 2 pud[5]), có khi phải đi đến ba cây số để vác về, cũng chỉ đủ chụm lò sưởi một lần mà thôi. Trong khi đó mùa đông kéo dài tới hai trăm ngày. Và buổi sáng phải đốt lò kiểu Nga, còn chiều đốt lò kiểu Hà Lan.
- Nói mà chẳng đi tới đâu thì nói làm gì cho mệt! - Matryona nói như giận dỗi một kẻ vô hình. - Không có ngựa thì phải nai lưng ra làm ngựa chớ biết sao[6]! Lưng tôi lúc nào mà chả có việc để làm. Mùa đông thì xe trượt tuyết, mùa hè thì gùi than, nói có ông giời làm chứng!
Mấy người đàn bà mỗi ngày phải đi vài lần. Gặp ngày hên Matryona vác về đến những sáu bao. Than của tôi thì bà chất thành đống công khai, còn của đi mót về thì bà giấu ở dưới mấy gầm cầu thang, và mỗi buổi tối còn che lại bằng một tấm ván.
- Trừ phi bọn giặc ấy đoán được, - bà vừa cười vừa nói, tay gạt mồ hôi trán - chớ còn khuya chúng mới tìm thấy!
Còn xí nghiệp liên hiệp có biện pháp gì? Họ chẳng thể nào có đủ nhân lực để tỏa ra canh gác tất cả đầm lầy. Chỉ còn cách là ghi số than khổng lồ đã khai thác được vào sổ kiểm kê, rồi trừ đi số thất thoát vì mưa và mảnh vụn. Đôi khi người ta cũng tập họp vài toán bảo vệ và chặn bắt mấy chị đàn bà đi mót than ngay tại ngõ vào làng. Các bà vội bỏ của chạy lấy người, tán loạn mỗi người mỗi hướng. Đôi khi, do có đơn tố cáo, họ xét nhà, lập biên bản chứa than lậu và dọa đưa ra tòa. Thế là mấy bà nghỉ đi nhặt than một thời gian; nhưng rồi khi mùa đông đã phà hơi sát gáy thì họ lại đổ xô đi lấy than bằng xe trượt tuyết, và chỉ đi ban đêm thôi.
Nói chung, nếu quan sát kĩ Matryona, tôi nhận thấy ngoài việc bếp núc nhà cửa, ngày nào bà cũng đều có một việc quan trọng để làm, trong đầu bà luôn sắp đặt sẵn một thứ tự hợp lí cho những công việc đó, và buổi sáng khi thức dậy, bà luôn biết sẽ phải làm gì trong ngày hôm ấy. Ngoài việc đi nhặt than, ngoài việc đi lượm các gốc cây mục do máy kéo để lại trong đầm, ngoài việc muối quả việt quất hái ở rừng để dành cho mùa đông ("Mài răng chút chơi đi Ignatich" bà nói thế mỗi lần mời tôi), ngoài việc đào khoai và chạy vạy để xin trợ cấp hưu trí, bà còn phải đi kiếm cỏ cho con dê cái có bộ lông trắng bẩn duy nhất của bà nữa.
- Sao bà không nuôi bò, Matryona Vasilyevna?
- Thực ra thì, Ignatich à... - đứng giữa khung cửa nhà bếp, trên người khoác chiếc tạp dề dơ dáy, quay về phía bàn tôi ngồi, Matryona giải thích - Con dê cho tôi cũng khá đủ sữa rồi. Nếu nuôi bò, nó sẽ ăn hết hai chân tôi luôn. Không thể cắt cỏ dọc theo đường sắt, có mấy ông kiểm soát, trong rừng cũng vậy, không có chỗ nào cắt được vì có kiểm lâm, còn ở nông trang thì họ cũng không cho tôi cắt cỏ nữa, tôi đâu còn là xã viên, họ nói vậy đó. Ngay cả mấy bà xã viên cũng phải cắt đến tận gốc và nộp cho nông trang, còn cho chính họ, thì chỉ có quyền cắt phần dưới lớp tuyết thôi - vậy thì còn gì? Hồi trước, chúng tôi thường cắt cỏ giữa hai mùa, từ khoảng giữa lễ thánh Peter đến lễ thánh Elias[7]. Người ta bảo trong thời gian đó cỏ ngon như mật...
Vì thế, chỉ có mỗi một con dê còi mà Matryona cũng phải vất vả lắm mới gom góp đủ cỏ nuôi nó. Từ sáng sớm, bà xách một cái túi và một cái liềm đi đến những nơi mà bà nhớ có cỏ mọc trên đường mòn, bên vệ đường hay trên những cù lao nhỏ giữa đầm lầy. Sau khi nhét cỏ tươi nặng trĩu đầy túi, bà khệ nệ vác về và trải ra sân phơi. Một bao cỏ tươi sau khi phơi khô ngót lại có khi chỉ xúc một chĩa ba là cùng.
Ông chủ tịch mới vừa được điều từ thành phố về, việc đầu tiên ông làm là xén bớt vườn của những người tàn tật mất sức lao động. Ông chỉ chừa lại cho Matryona một trăm năm mươi thước đất đầy cát, còn một trăm thước bị cắt bớt vẫn bỏ hoang bên kia hàng rào. Cứ mỗi lần thiếu nhân công, vì mấy bà kia nhất định không chịu đi làm, vợ ông chủ tịch lại đến tìm Matryona. Bà ta cũng là dân thành phố đến, quyết đoán, điệu bộ như quân đội trong cái áo bành tô ngắn màu xám và cái nhìn đầy răn đe của bà.
Bà ta bước vào nhà, không thèm chào hỏi ai, đứng nhìn Matryona một cách nghiêm khắc. Matryona lúng túng thấy rõ.
- Này, - vợ ông chủ tịch gằn từng tiếng, - đồng chí Grigoryeva! Đồng chí phải ra giúp nông trang! Ngày mai là phải rải phân rồi đấy!
Mặt Matryona nhăn nhó một nụ cười như có lỗi, dường như bà thấy ngượng dùm cho vợ ông chủ tịch vì bà ta không thể trả tiền công cho bà.
- À, tôi đang bệnh mà, - bà kéo dài giọng. - Hơn nữa tôi đâu còn là người của nông trang. - Nhưng rồi bà lại vội vàng đổi giọng: - Ngày mai mấy giờ phải có mặt?
- Nhớ mang theo cái chĩa ba đấy nhé! - bà chủ tịch còn căn dặn trước khi ngoe nguẩy cái váy cứng bước ra.
- Hừm, phải! - Matryona than phiền khi bà khách đã khuất dạng. - Nhớ mang chĩa ba theo nhé! Ở nông trang không có chĩa ba, không có cuốc xẻng gì cả. Nhà tôi không có đàn ông, lấy ai tra cán cho tôi đây?..
Thế là bà tư lự suốt cả buổi tối:
- Có nên nói gì không hả, Ignatich! Có điều là công việc này rồi cũng chẳng ra làm sao. Các bà ấy chỉ đến đứng chống xẻng rồi đợi còi nhà máy báo hiệu mười hai giờ để giải tán. Tệ hơn nữa là họ ra đó chỉ cốt cho có mặt, rồi lắm chuyện, đếm bà này tới, bà kia không tới. Tôi thấy đã làm việc thì không nên nghe một tiếng ồn ào nào, mà chỉ: "Ô kìa, đã đến giờ ăn trưa rồi", hay là: "Ô kìa, tối đến nơi rồi". Thế thôi!
Cuối cùng, sáng hôm sau bà vẫn ra đi với cái chĩa ba.
Nhưng nào phải chỉ có mỗi nông trang, bất cứ người nào, dù bà con xa gần, hay chỉ hàng xóm láng giềng thôi, từ tối hôm trước đã đến tìm bà và nói:
- Mai đến giúp tôi đào khoai, Matryona nhé!
Thế là bà không biết cách gì để từ chối. Bà bèn gác lại công việc đang làm nửa chừng để qua giúp hàng xóm, và khi về bà còn kể với giọng không mảy may ganh tị:
- Này, Ignatich à, khoai của bà ấy lớn thật! Tôi đào mà sướng cả tay, quên cả về luôn, nói có ông giời làm chứng!
Có thể nói rằng không có một luống đất trong khoảnh vườn nào của cái làng Talnovo này mà không có bàn tay của Matryona nhúng vào. Các bà ở Talnovo tính toán là một người dùng cuốc để cuốc vườn thì vừa nhọc vừa lâu, chi bằng hợp tác với nhau sáu người cùng kéo một cái cày để luân phiên xới đất của sáu khu vườn. Chính vì vậy mà Matryona luôn luôn được mời đến để giúp một tay.
- Thế nhưng các bà có trả công bà ấy không? - có lần không chịu được, tôi phải buột miệng hỏi.
- Bà ấy không chịu lấy tiền. Chúng tôi buộc phải thu xếp.
Matryona còn bận rộn dữ hơn nữa mỗi khi đến lượt bà phải lo ăn lo uống cho mấy tay chăn dê: một gã thì to lớn và câm điếc, còn tay kia là một thằng nhãi miệng lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc ướt nhẹp cắn giữa răng. Cứ một tháng rưỡi là đến phiên bà, điều này cũng khiến bà phải tốn kém một khoản khá bộn. Bà ra thương nghiệp hợp tác xã mua nào cá hộp, nào đường, nào bơ mà chính bà chưa bao giờ dám ăn. Mấy bà chủ nhà sĩ diện với nhau, bà nào cũng phải tỏ ra hào hiệp, cố gắng phục dịch mấy ông chăn dê.
- Phải sợ mấy bác thợ may và mấy ông mục tử - bà giải thích cho tôi - cả làng sẽ chê bai, mắng nhiếc mình nếu chẳng may làm họ phật í điều gì.
Trong cuộc sống đầy lo toan ấy, đôi khi bệnh tật lại kéo đến và mỗi lần như vậy là Matryona nằm liệt giường suốt hai ngày liền. Bà không than van, không rên rỉ, và gần như không nhúc nhích. Trong những ngày đó thì Masha, bạn thân của bà từ bé, đến lo cho con dê và nhóm lò. Matryona thì không ăn uống và cũng chẳng đòi hỏi gì hết. Ở Talnovo không có chuyện đi mời bác sĩ từ trạm xá của làng đến nhà khám, làm thế là không "phải phép" với mấy bà hàng xóm, họ sẽ kháo nhau: úi chà, cứ làm như bà hoàng ấy! Có lần người ta gọi bác sĩ, bà ta cũng đến nhưng chỉ để tỏ vẻ giận dữ và nói với Matryona khi nào đi được thì đến trạm xá. Matryona phải ráng lết đến đó, người ta cũng lấy máu và gửi lên bệnh viện huyện phân tích, nhưng sau đó chẳng thấy thông báo kết quả gì. Cũng lại do lỗi của Matryona cả thôi!
Công việc gọi bà trở về với cuộc sống. Không lâu sau, bà lại đứng dậy, lúc đầu còn chậm chạp, sau đó nhanh nhẹn trở lại như thường.
- Ông không thấy tôi hồi xưa thôi, Ignatich, - bà phân trần - Hồi đó tôi khỏe lắm, mấy cái bao năm pud đối với tôi là chuyện vặt. Anh chồng tôi cứ la: "Matryona! Coi chừng sụm lưng đấy!". Ấy vậy mà cũng chẳng khi nào phụ tôi nhấc một đầu súc gỗ bỏ lên xe kéo. Dạo đó chúng tôi có con ngựa chiến tôi gọi là Sói Con, nó khỏe thật...
- Sao lại ngựa chiến?
- Họ bắt con ngựa của chúng tôi ra trận và đem con ngựa bị thương thế vào. Con sau này là loại ngựa chứng. Có lần phát hoảng thế nào, nó đã kéo cả chiếc xe trượt tuyết chạy về phía hồ, mấy anh đàn ông đều nhảy khỏi xe chạy hết, tôi phải một mình ghìm cương và bắt nó ngừng lại được. Thật đấy! Đó là một con ngựa ăn thóc. Ở nhà quê chúng tôi người ta thích nuôi ngựa lắm. Ngựa mà nuôi bằng thóc thì phải biết, không ngán gì chở nặng!
Vậy thôi, thật sự ra Matryona chẳng gan dạ chút nào. Bà sợ hỏa hoạn, sợ sấm sét, và không hiểu tại sao bà sợ nhất là xe lửa.
- Lúc phải đi Cherusti, tôi thấy nó lù lù tiến đến từ phía Nechaevka, cặp mắt sáng quắc, tiếng bánh sắt vang rền, người tôi cứ nóng ran lên, hai đầu gối run cầm cập. Nói có ông giời làm chứng! - bà nhún vai nói với vẻ ngạc nhiên.
- Có lẽ tại người ta không bán vé phải không Matryona Vasilyevna?
- Ở quầy vé ấy à? Họ chỉ bán toàn hạng ghế mềm. Còn tàu thì chạy đến nơi rồi! Thiên hạ cứ chạy như mắc cửi: lúc đó mình phải lanh trí để biết phải làm gì. Đàn ông thì họ leo lên mui bằng một cái thang nhỏ, còn đàn bà chúng tôi thấy cái cửa nào không khóa là ùa đại lên chứ vé viếc gì, chỉ cần hạng thường thôi, nằm dài lên sàn còn được nữa là! Tại sao bọn ăn bám vô nhân đạo đó không bán vé hạng thường nhỉ, ai mà hiểu nổi...
Dù sao thì mùa đông năm đó, cuộc sống của Matryona cũng dễ thở hơn bao giờ hết. Cuối cùng, người ta cũng cấp cho bà một khoản lương hưu là tám chục rúp. Ngoài ra bà còn được thêm một trăm đồng của tôi và nhà trường.
- Này! Bây giờ thì Matryona không nên chết nữa rồi! - mấy bà láng giềng bắt đầu ganh tị - Mụ già ấy bây giờ không biết tiền để đâu cho hết!
- Lương hưu ấy à? - vài người khác phản đối - Nhà nước thì cứ đổi xoành xoạch, hôm nay cho, mai lại cắt, biết đường nào mà lần!
Bà đặt mua một đôi giày ống bằng da và một cái áo bông mới. Và bà đem sửa cái áo khoác cũ của nhân viên đường sắt, mà anh tài công ở Cherusti, chồng của đứa con nuôi tên Kira cho bà. Bác thợ may lưng gù trong làng lót thêm một lớp vải nhung, và bà có một cái áo bành tô tuyệt đẹp mà suốt sáu mươi năm cuộc đời bà chưa từng được mặc.
Đến giữa mùa đông, Matryona khâu giữa hai lớp vải của áo bành tô số tiền hai trăm rúp để dành lo "hậu sự" cho bà sau này. Bà vui sướng với í nghĩ đó:
- Ignatich à, tôi thấy cũng iên tâm được một chút rồi!
Tháng Chạp qua, tháng Giêng cũng trôi qua, hai tháng liền cơn bệnh không tái phát. Buổi tối Matryona bắt đầu đến nhà Masha thường xuyên hơn, ngồi chơi cắn hạt hướng dương. Buổi tối bà không bao giờ mời ai về nhà để không quấy rầy tôi làm việc. Chỉ có hôm vào ngày lễ Hiển linh, khi đi dạy về, tôi thấy ở trong nhà có nhiều người đang nhảy múa. Bà giới thiệu với tôi ba người em gái của bà, họ gọi bà là "mẹ nhỏ" hay "chị vú" vì bà là chị cả. Cho tới hôm đó, tôi chưa bao giờ nghe nói đến em gái của bà hết, phải chăng vì họ sợ bà nhờ vả?
Chỉ có một biến cố nhỏ hay một điềm xấu làm Matryona mất vui trong ngày lễ: bà đi bộ hơn năm cây số đến nhà thờ để xin ban phép lành cho nước uống, bà đặt bình nước của bà giữa những bình của người khác, nhưng khi lễ kết thúc, mấy chị đàn bà chen nhau để lấy bình, bà vì chậm chân nên khi ra đến nơi không thấy bình nước của mình đâu nữa, và cũng không còn bình nào khác. Bình nước của bà đã biến mất i như là bị ma quỷ giấu đi vậy.
- Mấy bà ơi! - Matryona chen vào đám các bà đang cầu nguyện, - có ai lấy lộn nước thánh của tôi không? đựng trong cái bình như thế này này!
Không ai lên tiếng hết. Có lẽ bọn trẻ con nghịch ngợm đã dấu đi rồi, ở đó có mấy đứa trẻ con.
Matryona buồn bã ra về. Năm nào bà cũng có nước thánh, còn năm nay thì không.
Cũng không thể nói là lòng tin của Matryona rất thành tâm. Bà là người đa thần là đàng khác, nhưng lại rất tin dị đoan: vào ngày lễ thánh John là không được ra vườn, nếu không năm sau sẽ mất mùa; nếu bão tuyết nổi lên có nghĩa là ai đó ở đâu đó treo cổ; nếu vấp chân vào cửa là sẽ có khách. Trong suốt thời gian ở trọ nhà bà, tôi chưa bao giờ thấy bà cầu nguyện, thậm chí cũng không làm dấu thánh. Nhưng mỗi lần làm việc gì bà cũng bắt đầu bằng câu: "Xin Chúa gia hộ!" và mỗi khi tôi đi đến trường, bà cũng cố nói cho được câu: "Chúa phù hộ cho ông!". Có thể bà cũng cầu nguyện, nhưng không để ai thấy, có thể vì ngượng ngùng hoặc sợ làm tôi khó chịu. Trong góc nhà trên tường cũng treo mấy ảnh tượng thánh và có bức tượng thánh Nicolas trong bếp. Ngày thường bà vẫn để tối, nhưng vào những hôm có thánh lễ, từ sáng sớm bà đã thắp đèn chỗ các tượng thánh.
Nhưng bà còn ít tội lỗi hơn còn mèo què của bà, vì nó giết chuột...
Vào những phút rảnh rỗi hiếm hoi của mình, bà cũng chăm chú nghe cái radio của tôi (tôi đã trang bị cho mình máy thu thanh, mà Matriona gọi là cái "máy nói". Cái máy thu thanh không phải là một tai họa, vì tôi có thể thò tay vặn núm tắt bất cứ lúc nào, thực sự đối với tôi nó như một người dò tin). Người ta đưa tin có hai, ba đoàn đại biểu nước ngoài đến thăm trong một tuần và phải đưa họ đi thăm nhiều thành phổ, tổ chức mit-tinh đón tiếp. Và ngày nào cũng toàn là tin quan trọng: tiệc chiêu đãi, ăn uống, đón tiếp...
Matryona nhăn mặt, thở dài, tỏ vẻ không tán thành:
- Thăm với chả viếng, đi gì mà đi lắm thế!
Nghe đài thông báo người ta vừa phát minh ra loại máy móc mới, bà lẩm bẩm trong bếp:
- Mới, mới hoài! Đồ cũ họ không thèm xài, đem bỏ đâu cho hết bây giờ?
Người ta cũng cho biết đang chuẩn bị phóng vệ tinh nhân tạo của trái đất, bà lắc đầu:
- Ối chà, họ lại sắp thay đổi cả thời tiết, mùa đông hay mùa hè gì nữa đây!
Shalyapin biểu diễn dân ca Nga. Matryona đứng nghe một lúc, rồi nói với giọng cả quyết:
- Hát gì mà kì cục, không giống ở quê mình chút nào!
- Sao bà nói vậy? Matryona Vasilyevna, bà nghe kĩ lại xem nào!
Bà nghe tiếp, rồi bặm môi:
- Không, không giống, không phải điệu hát của chúng tôi. Lại còn uốn éo giọng nữa chớ!
Rồi một hôm bà cũng làm tôi mát ruột. Bữa đó, người ta phát nguyên một chương trình toàn tình ca của Glinka. Sau khi nghe liên tiếp khoảng năm bản nhạc loại thính phòng, bà chùi tay vào tạp dề, từ dưới bếp bước lên, trên mi mắt đã mờ của bà còn ngấn lệ:
- Có thế chứ, vậy mới giống ở quê mình... - bà lẩm bẩm.


[1] Torfoproduct - được ghép từ Torf (tiếng Đức - nghĩa là than bùn) và product.
(Tất cả các chú thích đều của người dịch).
[2] Nguyên văn tiếng Nga: "Uống đi, uống với một tâm hồn khao khát. Người chắc từ nơi khác đến? ("Пей, пей с душою желадной. Ты, потай, приезжий?" nói theo thổ ngữ địa phương, ngắn gọn và có âm điệu).
[3] Nếu một súc gỗ tròn có đường kính cỡ 30cm, thì ngôi nhà này cao khoảng từ 5 đến 5 mét rưỡi.
[4] Tác giả chơi chữ: "ngọn đèn của Ilich" (лампочкa Ильича) ý nói Vladimir Ilich Lenin, "Chúa tể ánh sáng" (Царь Огонь) là Thần Sấm hay Vua Sấm trong cổ tích Nga và Bạch Nga (Belorus).
[5] pud - đơn vị đo lường của Nga thời xưa, tương đương 16,38 kg.
[6] Thời đó có quy định nhà dân không được nuôi ngựa mà phải nuôi tập trung tại nông trang.
[7] Ngày lễ thánh Peter là 29 tháng Sáu, lễ thánh Elias là 20 tháng Bảy, có nghĩa là giữa mùa hè.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét