VẬN HÀNH PHẦN NỮ TÍNH CỦA TÂM TRÍ
Thiền sư
Goso Hoyen thường nói:
Khi người
ta hỏi tôi Thiền là gì, tôi kể cho họ nghe chuyện này:
Nhận thấy cha mình ngày một già
đi, con trai của một tay đạo chích đề nghị cha mình truyền nghề để anh ta có
thể nối nghiệp nhà sau khi người cha giải nghệ.
Người cha đồng ý, và đêm đó họ
cùng đột nhập vào một ngôi nhà nọ.
Cậy nắp một chiếc rương lớn,
người cha bảo con chui vào để khoắng hết quần áo. Đứa con vừa chui vào trong,
người cha khóa rương lại và đánh động khiến cả nhà tỉnh giấc. Rồi ông ta chuồn
êm.
Bị khóa trong rương người con rất
tức giận, hoảng sợ và bối rối không biết làm cách nào để thoát ra. Thế rồi một
ý tưởng lóe lên trong đầu - anh ta giả làm tiếng mèo kêu.
Gia chủ sai đứa hầu gái thắp nến
và kiểm tra cái rương.
Khi chốt rương bật ra, người con
nhảy ra ngoài, thổi tắt nến, phóng vụt qua mặt người hầu gái đang hoảng hốt rồi
chạy mất. Người nhà đuổi theo.
Thấy một giếng nước bên đường,
anh ta ném một hòn đá lớn xuống đó rồi núp vào bóng tối. Đám người đuổi theo bu
quanh giếng nước cố nhìn xem tên trộm đang bị chìm.
Khi về đến nhà, đứa con rất giận
cha mình và cố kể lại chuyện xảy ra; song người cha nói: “Đừng băn khoăn kể lể
chi tiết làm gì. Con đã về đây nghĩa là con đã học được nghệ thuật rồi”.
Bản thể
chỉ có một, còn thế giới thì nhiều... và giữa hai thứ đó là tâm trí bị chia
tách, tâm trí kép. Nó giống như cái cây lớn, một cây sồi cổ thụ: chỉ có một
thân, rồi cây chia thành hai nhánh chính, tách làm đôi, từ đó cả ngàn lẻ một
nhánh con tách làm đôi mọc ra. Bản thể cũng tựa như thân cây - chỉ có một,
không có hai, còn tâm trí là sự phân nhánh đầu tiên, ở chỗ cái cây chia thành
hai nhánh, thành một cặp, thành hai phần biện chứng: chính đề và phản đề, nam
và nữ, âm và dương, ngày và đêm, thượng đế và quỷ dữ, Yoga và Thiền. Tất cả các
cặp đối ngẫu của thế giới về cơ bản nằm trong tính đối ngẫu của tâm trí - và
bên dưới tính đối ngẫu ấy là tính duy nhất của bản thể. Nếu bạn trượt xuống,
phía dưới tính đối ngẫu, bạn sẽ tìm được một thứ - hãy gọi đó là thượng đế, là
niết bàn, là bất cứ tên gì bạn thích.
Nếu đi
lên cao hơn, thông qua tính đối ngẫu, bạn sẽ tiến tới thế giới hàng triệu
nhánh.
Đó là một
trong những sự sáng suốt cơ bản nhất cần phải thấu hiểu - rằng tâm trí không
phải là đơn thể. Vì vậy, tất cả những gì thấy được qua tâm trí đều biến thành
hai. Tương tự như ánh sáng trắng đi qua lăng kính; ngay lập tức nó sẽ tán xạ
thành bảy sắc cầu vồng. Trước khi đi qua lăng kính nó là một; đi qua lăng kính
nó bị tán sắc và ánh sáng trắng biến thành bảy sắc cầu vồng.
Thế giới
là cầu vồng, tâm trí là lăng kính, còn bản thể là tia sáng trắng.
Nghiên
cứu hiện đại đã đi đến một kết luận đáng kể, một trong những thành tựu quan
trọng nhất của thế kỉ hai mươi, đó là: người ta không có một tâm trí - mà là
hai tâm trí. Bộ não được chia thành hai bán cầu: bán cầu não phải và bán cầu
não trái. Bán cầu não phải nối với tay trái, còn bán cầu não trái với tay phải
- chéo nhau. Bán cầu não phải thiên về trực giác, phi logic, phi lí, thi vị,
viển vông, giàu tưởng tượng, lãng mạn, hoang đường, sùng tín; còn bán cầu não
trái - logic, hợp lí, chính xác, thực tế, khoa học, tính toán.
Hai bán
cầu não thường xuyên xung đột với nhau - nền tảng của chính trị thế giới nằm
trong con người bạn, hoạt động chính trị sôi nổi nhất ở trong con người bạn. Có
thể bạn chưa nhận thức được, nhưng một khi nhận thức được rồi thì điều thật sự
cần phải làm nằm đâu đó giữa hai tâm trí ấy.
Tay trái
có liên quan đến bán cầu não phải - trực giác, trí tưởng tượng, hoang đường,
thi ca, tôn giáo - và tay trái thường bị quy kết rất nhiều. Xã hội là của những
người thuận tay phải - tay phải nghĩa là bán cầu não trái. Mười phần trăm trẻ
em thuận tay trái bẩn sinh, song chúng bị buộc phải chuyển qua thuận tay phải.
Trẻ em thuận tay trái bẩm sinh về cơ bản thường phi lí, có thiên hướng trực
giác, kém tư duy toán học, hình học - chúng là mối nguy cho xã hội thế nên xã
hội buộc chúng bằng mọi cách phải chuyển qua thuận tay phải. Đó không chỉ là
vấn đề thuận tay, mà là vấn đề chính trị bên trong con người: đứa trẻ thuận tay
trái thực hiện chức năng thông qua bán cầu não phài - điều mà xã hội không cho
phép vì có nguy cơ, thế nên điều đó phải dừng lại trước khi đi quá xa.
Người ta
ngờ rằng ban đầu tỉ lệ trẻ em thuận tay trái và trẻ em thuận tay phải là 50:50
- nhưng phe thuận tay phải nắm vai trò chỉ huy khá lâu nên dần dần tỉ lệ này
giảm xuống còn 10:90. Thậm chí trong số những người ở đây có nhiều người thuận
tay trái mà không nhận thức được. Bạn viết bằng tay phải và làm việc thuận tay
phải, nhưng thời thơ ấu có thể bạn bị buộc phải chuyển qua tay phải. Đấy là
mánh khóe, bởi lẽ một khi bạn trở thành thuận tay phải, bán cầu não trái bắt đầu
hoạt động. Bán cầu não trái là lí trí; bán cầu não phải thì ngoài tầm lí trí,
chức năng của nó không phải là toán học. Nó hoạt động trong những lóe chớp, nó
mang tính trực giác - thật đáng yêu nhưng phi lí.
Nếu hiểu
được sự phân loại này bạn sẽ hiểu được nhiều điều. Về giai cấp tư sản và vô
sản, giai cấp vô sản luôn hoạt động thông qua bán cầu não phải. Người nghèo
thường thiên về trực giác hơn. Hãy trở ngược về người nguyên thủy, họ thiên về
trực giác hơn. Càng nghèo thì người ta càng ít trí tuệ hơn - và có lẽ đó là
nguyên cớ của sự nghèo khó. Bởi vì ít trí tuệ người ta không thể cạnh tranh
trong thế giới của lí trí. Càng ít rành rọt trong vấn đề liên quan đến ngôn
ngữ, liên quan đến lí trí, liên quan đến tính toán thì hầu như người ta càng
ngốc nghếch. Đó có thể là nguyên cớ của sự nghèo khó.
Người
giàu hoạt động thông qua bán cầu não trái; họ tính toán hơn, việc gì cũng quy
ra số học, khôn vặt, thông minh, logic hơn - và họ luôn trù tính. Có lẽ đó là
nguyên nhân của sự giàu có.
Không
thể xóa bỏ giai cấp tư sản và giai cấp vô sản bằng cách mạng vô sản, không hề,
bởi vì cách mạng vô sản cũng do chính những con người ấy thực hiện. Sa hoàng
cai trị nước Nga, ông ta cai trị thông qua bán cầu não trái. Thế rồi Lenin thay
thế, cũng cùng một loại người. Rồi Stalin thay thế Lenin, càng cùng một loại
người. Cách mạng là giả tạo vì sâu bên trong vẫn cùng một loại người cai trị -
phe cai trị và phe bị trị vẫn y hệt, phe bị trị vẫn là những người thuộc về bán
cầu não phải. Thế nên bất kể điều gì bạn làm ngoài thế giới cũng chẳng thật sự
làm khác đi, nó chỉ mang tính bề mặt.
Tương tự
với nam giới và nữ giới. Nữ giới là những người của bán cầu não phải, còn nam
giới của bán cầu não trái. Đàn ông cai trị phụ nữ suốt nhiều thế kỉ. Ngày nay
một số phụ nữ đang nổi dậy, song điều đáng ngạc nhiên là những phụ nữ này cũng
cùng một loại người. Thực tế họ chẳng khác gì đàn ông - cũng lí trí, hiếu
thắng, thực tế. Có thể vào một ngày nào đó, cũng giống như cách mạng vô sản
thành công ở Nga và Trung Quốc, ở đâu đó như Hoa Kì chẳng hạn, phụ nữ có thể
thành công trong việc lật đổ đàn ông. Nhưng khi thành công, phụ nữ sẽ không còn
là phụ nữ nữa, vì họ sẽ trở thành những người của bán cầu não trái. Bởi lẽ để
tranh đấu người ta phải tính toán, và để tranh đấu với đàn ông họ phải giống
như đàn ông, phải hung hăng. Tính hiếu chiến đó đã được thể hiện trong các
phong trào giải phóng phự nữ trên khắp thế giới. Những phụ nữ đã góp phần trong
phong trào giải phóng phụ nữ đều rất hung hăng, họ đánh mất sự duyên dáng,
những thứ xuất phát từ trực giác. Bởi lẽ nếu phải tranh đấu với nam giới, phụ
nữ phải học những mánh khóe tương tự; nếu phải tranh đấu với nam giới, phụ nữ
phải dùng những kĩ thuật tương tự.
Chiến đấu
với người khác thì nguy hiểm bởi lẽ bạn sẽ trở nên giống kẻ thù. Đó là một
trong những vấn đề lớn nhất của nhân loại. Một khi bạn chiến đấu với ai đó, dần
dần bạn sẽ phải dùng những kĩ thuật và cách thức tương tự. Thế thì có thể đánh
bại kẻ thù nhưng ngay lúc kẻ thù bị đánh bại bạn lại trở thành kẻ thù của chính
mình. Stalin thì giống Sa hoàng hơn bất cứ Sa hoàng nào, bạo lực hơn bất cứ Sa
hoàng nào. Dĩ nhiên là phải như thế: để lật đổ Sa hoàng phải cần những người
rất bạo lực, còn bạo lực hơn cả Sa hoàng. Chỉ có họ mới trở thành người cách
mạng, mới vượt lên đỉnh. Ngay lúc lên đến đó, chính họ lại trở thành Sa hoàng,
và xã hội tiếp tục đi theo lối mòn. Chỉ những thứ ngoài bề mặt thay đổi, còn
sâu bên trong xung đột vẫn còn nguyên.
Xung đột
xảy ra bên trong con người. Trừ phi được giải quyết ở đó, bằng không thì không
thể giải quyết ở chỗ khác. Chính trị ở bên trong bạn; ở giữa hai phần của tâm
trí.
Tồn tại
một cây cầu nhỏ. Nếu cây cầu bị phá hủy do một sự tình cờ nào đó, do sự khiếm
khuyết về sinh lí hoặc những thứ khác, người ta trở nên bị chia tách, người ta
trở thành hai con người, xảy ra hiện tượng tâm thần phân liệt hoặc “lưỡng nhân
cách”. Nếu cây cầu bị gãy - mà cầu thì rất mỏng manh - thế thì bạn trở thành
hai người, bạn hành xử như hai người. Buổi sáng bạn thật đáng yêu, tươi đẹp;
còn tối đến lại giận dữ, hoàn toàn khác biệt. Bạn không nhớ con người buổi sáng
của mình - làm sao bạn nhớ được? Tâm trí khác đang hoạt động - và một người hóa
thành hai. Nếu cây cầu được gia cố tới mức hai tâm trí không còn là hai mà nhập
thành một, thế thì nảy sinh sự hợp nhất, sự kết tinh. Điều mà Gurdjieff thường
gọi là “sự kết tinh của bản thể” không là gì ngoài việc hai tâm trí nhập thành
một, sự gặp gỡ của nam và nữ bên trong, sự gặp gỡ của âm và dương, sự gặp gỡ
của trái và phải, sự gặp gỡ của logic và phi logic, sự gặp gỡ của Plato và
Aristotle.
Nếu có
thể hiểu được điều cơ bản sự phân đôi của nhánh cây tâm trí, thế thì bạn có thể
hiểu được tất cả xung đột ở chung quanh và bên trong con người bạn.
Để tôi kể
bạn nghe một chuyện vui:
Trong số
dân nói tiếng Đức thì người Berlin được coi là hình ảnh thu nhỏ của tính cộc
cằn và hiệu quả của người Phổ, trong khi người Vienna lại đậm nét quyến rũ và
thoải mái của người Áo. Có chuyện là một người Berlin đến thăm Vienna bị lạc
đường và cần chỉ dẫn. Người Berlin ấy sẽ làm gì? Anh ta túm lấy ve áo của một
người Vienna đầu tiên bắt gặp và quát lớn: “Bưu điện ở đâu?”
Người
Vienna giật thót mình nhẹ nhàng gỡ tay người kia ra, vuốt lại ve áo và từ tốn
nói: “Thưa quý ông, thật nhã nhặn hơn nếu như ông tiến lại gần tôi và hỏi một
cách lịch sự: Thưa quý ông, nếu có thời gian và biết đường, làm ơn chỉ cho tôi
đường đến bưu điện?”
Người
Berlin hết sức ngạc nhiên nhìn chằm chằm người kia một lúc rồi lầm bầm: “Thà
lạc đường còn hơn!” rồi dậm chân đi mất.
Tương tự,
một người Vienna cũng đến chơi Berlin năm đó, và anh ta cần tìm đường đến bưu
điện. Tiến đến gần một người Berlin, anh ta lịch sự hỏi: “Thưa quý ông, nếu có
thời gian và biết đường, làm ơn chỉ cho tôi đường đến bưu điện?”
Người
Berlin trả lời nhanh như máy: “Nhìn trước mặt, đi qua hai dãy nhà, rẽ phải, qua
một dãy nhà, sang đường, chếch bên phải, đi bên trái băng qua đường xe lửa, qua
quầy báo là vào sảnh bưu điện.”
Người
Vienna còn đang bảy mờ ba tỏ, tuy thế vẫn thì thầm: “Ngàn lần cảm tạ quý ông
tốt bụng”, trong khi đó người Berlin cáu tiết túm mạnh ve áo người kia và quát:
“Đừng bận tâm chuyện ơn huệ làm gì, nhắc lại chỉ dẫn xem!”
Tâm trí
nam giới như người Berlin; còn tâm trí nữ giới như người Vienna. Tâm trí nữ
giới thiên về sự thanh nhã, tâm trí nam giới thiên về tính hiệu quả. Dĩ nhiên,
về lâu về dài, nếu xảy ra xung đột liên miên thì sự duyên dáng ắt sẽ thất bại
còn tính hiệu quả sẽ chiến thắng, bởi lẽ thế giới này hiểu theo ngôn ngữ toán
học chứ không phải ngôn ngữ tình yêu. Song vào khoảnh khắc tính hiệu quả chiến
thắng sự duyên dáng thì cũng là lúc bạn đã đánh mất một thứ vô cùng quý giá:
đánh mất sự tiếp xúc với bản thể của chính mình. Bạn có thể trở nên rất hiệu
quả, nhưng bạn sẽ không thật sự còn là người nữa. Bạn sẽ trở thành cỗ máy, một
con robot.
Vì thế
nên có sự xung đột liên tục giữa nam giới và nữ giới. Nam nữ không thể tách rời
mà phải luôn luôn duy trì trong mối quan hệ, nhưng lại không thể cùng nhau.
Cuộc chiến không phải ở bên ngoài, cuộc chiến bên trong con người bạn.
Và theo
tôi hiểu: trừ phi giải quyết được cuộc chiến bên trong bạn giữa hai bán cầu não
trái và phải, bằng không bạn sẽ không thể nào yên bình trong tình yêu - không
bao giờ - bởi lẽ cuộc chiến bên trong sẽ phản ánh ra ngoài. Nếu bạn chiến đấu
bên trong và đồng nhất với bán cầu não trái, bán cầu não của lí trí, bạn sẽ
liên tục cố gắng lấn át bán cầu não phải, bạn sẽ cố làm điều tương tự với người
phụ nữ mình yêu. Nếu người phụ nữ liên tục chiến đấu với lí trí bên trong bản
thân mình, cô ấy sẽ liên tục chiến đấu với người đàn ông mình yêu.
Tất cả
các mối quan hệ - hầu như tất cả, trường hợp ngoại lệ hầu như không đáng kể,
không cần tính tới - đều tồi tệ. Lúc đầu thì đẹp đẽ - lúc đầu bạn chưa thể hiện
con người thật; lúc đầu bạn còn giả vờ. Một khi mối quan hệ đâu vào đấy thì bạn
thư giãn, xung đột bên trong nổi bọt và bắt đầu phản ánh trong mối quan hệ. Thế
rồi bắt đầu cuộc chiến, thế rồi bắt đầu ngàn lẻ một cách mè nheo lẫn nhau, hủy
hoại lẫn nhau.
Người ta
đến chỗ tôi và hỏi làm thế nào để đi sâu vào mối quan hệ. Tôi nói với họ:
“Trước tiên hãy đi sâu vào thiền”. Trừ phi bạn giải quyết vấn đề bên trong con
người mình, bằng không bạn sẽ gây ra thêm nhiều vấn đề hơn nữa. Nếu bạn đi vào
mối quan hệ, tất cả những vấn đề của bạn sẽ còn nhân lên thêm. Hãy nhìn xem -
tình yêu là thứ vĩ đại nhất và đẹp nhất trên đời, song bạn có thể thấy nó còn tồi
tệ hơn, địa ngục hơn nữa.
Mulla
Nasruddin có lần nói với tôi: “Này, tôi đã trì hoãn cái ngày quái quỷ ấy hàng
tháng trời, song lần này tôi phải dấn tới thôi”.
“Đi khám
nha sĩ hay bác sĩ?” Tôi hỏi.
“Không
phải,” ông trả lời, “tôi lấy vợ.”
Người ta
tiếp tục tránh né hôn nhân, người ta tiếp tục trì hoãn. Rồi đến một ngày họ
thấy không thể thoát được, chỉ khi ấy họ mới buông lỏng. Nếu bạn ở bên ngoài,
nó có thể trông như một ốc đảo xinh đẹp giữa sa mạc - nhưng khi bạn tới gần, ốc
đảo bắt đầu khô cạn và biến mất. Một khi bạn bị buộc vào trong, nó tựa như nhà
tù - song nên nhớ, sự cầm tù không xuất phát từ người khác, mà từ chính bạn.
Nếu bán
cầu não trái tiếp tục chi phối bạn, bạn sẽ có một cuộc sống thành đạt - thành
đạt tới mức vào tuổi bốn mươi bạn sẽ có những ung nhọt; vào tuổi bốn lăm bạn sẽ
có ít nhất một hai cơn nhồi máu cơ tim. Vào tuổi năm mươi bạn hầu như đã chết -
chết một cách thành công! Bạn có thể trở thành một nhà khoa học vĩ đại, nhưng
bạn sẽ không bao giờ trở thành một sinh linh vĩ đại. Bạn có thể tích lũy đủ của
cải, nhưng bạn sẽ đánh mất tất cả những gì đáng giá. Bạn có thể
chinh phục được toàn thế giới như Alexander Đại đế, nhưng vẫn không chinh phục
được vùng đất bên trong con người bạn.
Có nhiều
điều hấp dẫn để đi theo bán cầu não trái. Đó là bộ não của thế giới bên ngoài;
liên quan đến những thứ như: xe cộ, tiền bạc, nhà cửa, quyền lực, thanh thế. Đó
là định hướng của người đàn ông mà ở Ấn Độ chúng tôi gọi là grustha, người chủ nhà.
Bán cầu
não phải là định hướng của khất sĩ (sannyasin), người quan tâm đến bản thể bên
trong, sự bình yên nội tâm, sự an lạc của mình, và ít quan tâm đến những sự vật
bên ngoài. Nếu chúng tới dễ dàng, tốt thôi; nếu không tới, cũng tốt. Khất sĩ
quan tâm nhiều đến khoảnh khắc, ít quan tâm đến tương lai; quan tâm nhiều đến
thi vị của cuộc sống, ít quan tâm đến những con số.
Tôi có
nghe một chuyện vui:
Finkelstein
vừa thắng giải lớn cuộc đua ngựa, và dễ hiểu là Muscovitz cảm thấy đố kị:
“Anh đã
làm điều đó bằng cách nào, Finkelstein?”
“Dễ mà,”
Finkelstein trả lời, “tôi nằm mơ thấy.”
“Nằm mơ?”
“Đúng
thế. Tôi tính toán đặt cược cho ba con ngựa về đầu, song còn chưa chắc chắn ở
con về thứ ba. Thế rồi đêm hôm trước tôi mơ thấy một thiên thần đứng ở đầu
giường tôi nằm và nói: ‘Chúa ban phúc lành cho con, Finkelstein, bảy lần bảy
phù hộ cho con’. Khi tỉnh giấc tôi nhận ra rằng bảy lần bảy là 48 và con ngựa
số 48 có tên là Giấc Mơ Thiên Đàng. Tôi đặt cuợc con Giấc Mơ Thiên Đàng là con
ngựa về thứ ba, rồi tôi kiếm được một món lớn, đơn giản là kiếm được một món
lớn.”
“Nhưng
này Finkelstein, bảy lần bảy là 49 mà!” Muscovitz thắc mắc.
“Thế thì
anh cũng chỉ là nhà toán học mà thôi.” Finkelstein trả lời.
Có một
cách để đi theo cuộc sống qua số học, và có cách khác để đi theo cuộc sống qua
những giấc mơ, qua giấc mơ và những hình ảnh. Chúng hoàn toàn khác biệt.
Mới hôm
nọ có người hỏi: “Có ma quỷ, thần tiên và những thứ tương tự hay không?”. Vâng,
có đấy - nếu bạn chuyển qua bán cầu não phải, thì có đấy. Nếu bạn chuyển qua
bán cầu não trái thì không có đâu. Tất cả trẻ em đều thiên về bán cầu não phải;
chúng thấy được thần tiên, ma quỷ khắp xung quanh. Nhưng nếu bạn vẫn cứ giảng
giải rồi đặt chúng về đúng chỗ và nói: “Vớ vẩn. Các con ngốc thật. Làm gì có
thần tiên? Chẳng có gì, chỉ là ảo ảnh”. Dần dà bạn thuyết phục được đứa trẻ,
đứa trẻ ngây thơ - dần dà bạn thuyết phục được nó chuyển từ định hướng bán cầu
não phải sang bán cầu não trái. Nó phải thế - nó phải sống trong thế giới của
bạn. Nó phải quên đi những giấc mơ, nó phải quên đi chuyện thần thoại, nó phải
quên đi thi vị, nó phải học tính toán. Dĩ nhiên nó sẽ trở nên hiệu quả trong
tính toán - và hầu như trở nên què quặt và tê liệt trong cuộc sống. Hiện hữu
tiếp tục đi càng ngày càng xa, còn nó chỉ trở thành một món hàng ngoài chợ,
toàn bộ cuộc đời nó trở thành rác rưởi... mặc dù, tất nhiên, có giá trị trong
mắt của thế giới.
Khất sĩ
là người sống qua tưởng tượng, người sống qua phẩm chất mơ mộng của tâm trí.
Người sống qua chất thơ, người thi vị hóa cuộc sống, người nhìn qua những hình
ảnh - thế thì họ thấy cây cỏ xanh tươi hơn bạn thấy, thế thì chim muông đẹp
hơn, thế thì mọi thứ có phẩm chất sáng chói. Viên sỏi tầm thường hóa thành kim
cương; hòn đá tầm thường không còn tầm thường nữa - không có gì tầm thường! Nếu
bạn nhìn từ bán cầu não phải, mọi thứ đều trở nên thiêng liêng, thần thánh.
Một người
ngồi uống trà với bạn mình trong quán cà phê. Anh ta ngắm chiếc tách và thở
dài:
“Này bạn,
đời người như chiếc tách trà.”
“Nhưng vì
sao? Vì sao đời người lại giống tách trà?” Người bạn ngẫm nghĩ một chốc rồi
nói.
“Làm sao
tôi biết được? Tôi có phải là triết gia đâu?” Người kia đáp.
Bán cầu
não phải chỉ phát biểu sự việc, mà không đưa ra lí do. Nếu hỏi: “Tại sao?” thì
nó chỉ biết im lặng, không có câu trả lời. Nếu bạn đang đi dạo và thấy một đóa
sen rồi bạn nói: “Thật đẹp!” rồi người khác hỏi: “Tại sao?” - bạn sẽ làm gì?
Bạn sẽ nói: “Làm sao tôi biết được? Tôi có phải là triết gia đâu?”
Đơn giản đó
là phát biểu, một phát biểu rất đơn giản, tự thân nó đầy đủ, toàn vẹn. Không có
lí do nào đằng sau nó và không có kết quả nào sau nó, đó là phát biểu một sự
việc. Hãy đọc các bộ Áo nghĩa thư (Upanishads) - đơn giản chúng phát biểu những
sự việc. Chúng nói: “Thượng đế tồn tại - đừng hỏi tại sao”. Chúng sẽ nói:
“Chúng tôi có phải là triết gia đâu? Làm sao chúng tôi biết được? Thượng đế tồn
tại”. Chúng nói Thượng đế rất đẹp, chúng nói Thượng đế rất gần, gần hơn trái
tim bạn, nhưng đừng hỏi tại sao - chúng không phải là triết gia.
Hãy nhìn
vào phúc âm và những phát biểu của Chúa Jesus - chúng thật đơn giản. Ngài nói:
“Thượng đế của ta ở trên trời. Ta là con của người, người là cha ta”. Đừng hỏi
tại sao. Ngài sẽ không thể chứng minh trước tòa, đơn giản ngài sẽ nói: “Ta biết
vậy”. Nếu hỏi ngài rằng ai nói cho ông biết, quyền lực nào sai khiến ông nói
thế, thì ngài sẽ trả lời: “Là quyền lực ngay trong bản thân ta. Chẳng có quyền
lực nào sai khiến”.
Đó là vấn
đề khi một người như Jesus bước vào thế giới. Tâm trí duy lí không thể hiểu
được. Ngài bị đóng đinh vì một lí do khác. Ngài bị bán cầu não trái đóng đinh
bởi lẽ ngài là người của bán cầu não phải. Ngài bị đóng đinh câu rút do xung
đột bên trong.
Lão Tử
nói: “Dường như toàn thế gian đều thông minh, chỉ có ta là ngu ngốc; dường như
toàn thế gian đều chắc chắn, chỉ có ta bối rối và do dự”. Ông là người của bán
cầu não phải.
Bán cầu
não phải là bán cầu của thơ ca và tình yêu. Một thay đổi lớn lao cần thiết;
thay đổi đó là chuyển biến bên trong. Yoga là một nỗ lực để đạt tới tính đơn
nhất của bản thể thông qua bán cầu não trái, dùng logic, toán học, khoa học và
cố gắng đi về
phía bên kia. Thiền thì ngược lại: mục đích giống nhau, song Thiền dùng bán cầu
não phải để đi về phía bên kia. Có thể dùng hai cách, nhưng theo Yoga thì con
đường sẽ rất dài; gần như một cuộc chiến không cần thiết bởi lẽ bạn đang cố
gắng từ lí trí để đạt tới siêu lí trí, sẽ khó khăn hơn. Thiền thì dễ hơn bởi lẽ
nó là nỗ lực từ phi lí để đạt tới siêu lí. Phi lí thì gần giống với siêu lí,
không có những rào cản. Yoga thì giống như đi xuyên qua tường còn Thiền thì
giống như mở cánh cửa. Cánh cửa có thể bị đóng hoàn toàn, bạn chỉ đẩy một chút
và nó mở ra.
Bây giờ
quay về với câu chuyện. Đó là một trong những giai thoại Thiền hay nhất. Thiền
giả nói thông qua những câu chuyện - họ phải nói qua những câu chuyện bởi lẽ họ
không thể tạo ra lí thuyết và học thuyết, họ chỉ có thể kể chuyện. Họ là những
người kể chuyện tuyệt vời. Jesus vẫn thường kể chuyện ngụ ngôn, Phật vẫn kể
chuyện ngụ ngôn, những nhà huyền môn Sufi vẫn kể chuyện ngụ ngôn - đó không
phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chuyện kể, chuyện ngụ ngôn, giai thoại là
phương cách của bán cầu não phải; tranh luận logic, chứng minh, suy luận là
phương cách của bán cầu não trái.
Hãy lắng
nghe:
Goso Hoyen thường nói: “Khi người
ta hỏi tôi Thiền là gì, tôi thường kể cho họ nghe chuyện này”.
Câu
chuyện này thật sự nói lên Thiền là gì - không định nghĩa, mà ám chỉ. Không thể
định nghĩa bởi lẽ phẩm chất cơ bản của Thiền là không thể định nghĩa được. Bạn
có thể nếm hương vị, nhưng không thể định nghĩa; bạn có thể sống nó nhưng ngôn
ngữ thì không đủ để diễn tả; bạn có thể chỉ ra nhưng không thể nói ra. Song qua
câu chuyện kể có thể chuyển tải được ít nhiều. Câu chuyện này thật sự ám chỉ,
ám chỉ một cách hoàn hảo Thiền là gì.
Đây chỉ
là điệu bộ, đừng định nghĩa, đừng triết lí hóa nó, cứ để nó như một tia chớp,
một lóe chớp của thấu hiểu. Nó sẽ không làm tăng kiến thức, nhưng nó có thể đem
lại thay đổi, một cú đẩy, một sự biến dạng. Bạn có thể bị ném từ góc này của
tâm trí sang góc khác... và đó là toàn bộ điểm mấu chốt của câu chuyện.
Nhận thấy cha mình ngày một già
đi, con trai của một tay đạo chích yêu cầu cha mình truyền nghề để anh ta có
thể nối nghiệp nhà sau khi người cha giải nghệ.
Nghề đạo
chích không phải là một việc mang tính khoa học, mà là nghệ thuật. Những tay
đạo chích là những nhà thơ bẩm sinh; bạn có thể học, nhưng việc học chẳng giúp
ích gì. Nếu học thì có thể bạn sẽ bị bắt vì cảnh sát còn biết nhiều hơn bạn -
họ đã tích lũy cả thế kỉ học tập.
Một tên
trộm là trộm bẩm sinh. Hắn sống bằng trực giác, đó là tài lẻ. Hắn sống bằng
linh cảm - một tên trộm thì âm tính. Hắn không là người kinh doanh, hắn là một
con bạc, hắn mạo hiểm tất cả chẳng vì cái gì. Toàn bộ nghề nghiệp của hắn là
rủi ro và nguy hiểm. Giống như một kẻ tu hành. Những Thiền giả nói rằng người
tu hành cũng giống như đạo chích: trong việc tìm kiếm Thượng đế họ cũng là kẻ trộm.
Không có cách nào để đạt tới Thượng đế qua logic hoặc lí trí hoặc xã hội, văn
hóa, văn minh được chấp nhận. Họ trổ vách và vào
bằng cửa sau. Nếu không được phép vào ban ngày, họ vào lúc
đêm tối. Nếu không thể đi theo đám đông trên siêu xa lộ, họ tạo đường mòn riêng
trong rừng. Phải, có một sự tương đồng nhất định. Bạn có thể đạt tới Thượng đế
nếu bạn là kẻ trộm, người nghệ sĩ biết bí quyết
trộm lửa, hay trộm kho báu.
Người cha
sắp giải nghệ và đứa con đề nghị: “Trước khi giải nghệ hãy truyền nghề cho con”.
Người cha đồng ý, và đêm đó họ
cùng đột nhập vào một ngôi nhà nọ.
Cậy nắp một chiếc rương lớn,
người cha bảo con chui vào để khoắng hết quần áo. Đứa con vừa chui vào trong,
người cha khóa rương lại và đánh động khiến cả nhà tỉnh giấc. Rồi ông ta chuồn
êm.
Ông ta ắt phải là một bậc thầy thật sự, không phải kẻ trộm
tầm thường.
Bị khóa trong rương người con rất
tức giận, hoảng sợ và bối rối.
Dĩ nhiên
là đúng lẽ tự nhiên thôi! Kiểu truyền nghề gì thế này? Anh ta bị ném vào tình
huống nguy hiểm. Song đó là cách duy nhất để dạy một điều chưa biết. Đó là cách
duy nhất để dạy một điều thuộc bán cầu não phải.
Có thể
dạy bán cầu não trái ở trường học: có thể học, có thể có môn học, những khóa
học từng bậc. Thế thì dần dà chuyển từ lớp này sang lớp khác, bạn trở thành bậc
thầy về nghệ thuật và khoa học và nhiều thứ khác. Nhưng không thể có trường học
nào cho bán cầu não phải: đó là trực giác, không phải từng bậc. Nó bất thình
lình; như một lóe chớp, một tia chớp giữa đêm đen. Nếu nó xảy ra là nó xảy ra.
Nếu không xảy ra thì không xảy ra; không thể làm gì với nó. Bạn chỉ có thể để
bản thân mình trong một tình huống nhất định mà dễ có khả năng xảy ra hơn thôi.
Đó là lí
do vì sao tôi nói người cha ắt phải là một bậc thầy.
Bị khóa trong rương người con rất
tức giận, hoảng sợ và bối rối.
Bấy giờ
không có cách logic nào để thoát ra khỏi rương: nó bị khóa bên ngoài, người cha
đánh động, cả nhà tỉnh giấc, người ta đi quanh, tìm kiếm, còn người cha đã lỉnh
mất. Bấy giờ có phương cách logic nào để thoát ra khỏi rương? Đơn giản logic bó
tay, lí trí chẳng có chỗ mà dùng. Bạn có thể nghĩ gì? Tâm trí đột nhiên ngưng
đọng - và đó là những gì người cha làm, đó là tất cả những gì đáng nói. Người
cha cố ép đứa con vào một tình huống mà tâm trí logic phải ngưng đọng, sớm muộn
gì nó sẽ bị cảnh sát bắt bởi lẽ họ cũng đi theo một logic tương tự.
Chuyện
xảy ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong vòng ba năm Adolph Hitler liên
tục chiến thắng, và lí do là ông ta phi logic. Tất cả các nước đối đầu với ông
ta chiến đấu theo logic. Dĩ nhiên, họ có cả một khoa học lớn về chiến tranh,
huấn luyện quân sự, điều này điều nọ, và họ có những chuyên gia đã nhận xét:
“Bây giờ Hitler sẽ tấn công từ cánh này”. Và nếu Hitler nghĩ thế thì ông ta
cũng sẽ làm như vậy, bởi lẽ đó là điểm phòng bị yếu nhất của đối phương. Lẽ tất
nhiên đối phương phải bị tấn công ở điểm yếu nhất - đó là logic. Thế nên họ dự
định Hitler phải tấn công ở điểm yếu nhất, họ sẽ tập trung quân ở điểm yếu
nhất, và ông ta sẽ tấn công bất cứ chỗ nào, không đoán trước được.
Ông ta
thậm chí không theo lời khuyên của những tướng lãnh, ông ta có một nhà chiêm
tinh người sẽ đề xuất vị trí tấn công. Bấy giờ đó là điều chưa từng ai làm
trước đây - chiến tranh không thể do những nhà chiêm
tinh điều khiển! Một lần
Churchill tìm hiểu được, các điệp viên đến báo cáo rằng họ không
thể thắng được người này vì ông ta hoàn toàn phi logic - một nhà chiêm tinh
ngốc nghếch chẳng biết gì về chiến tranh, chưa từng ra ngoài mặt trận, lại
quyết định sự việc, quyết định theo các chòm sao... Các chòm sao thì có quan hệ
gì đến cuộc chiến tranh trên mặt đất? Churchill lập tức cử một nhà chiêm tinh
hoàng gia của nhà vua và bắt đầu làm theo lời của nhà chiêm tinh này. Thế rồi
sự việc trở nên ổn thỏa vì giờ đây có hai kẻ ngốc tiên liệu mọi việc. Mọi thứ
trở nên đơn giản.
Nếu tên
trộm đi theo học thuyết của Aristotle, sớm muốn gì hắn cũng sẽ bị bắt bởi lẽ
cảnh sát cũng đi theo logic của Aristotle. Nếu bạn hành động theo logic, thế
thì bất cứ ai theo phương pháp logic cũng có thể bắt được bạn ở bất cứ đâu. Tên
trộm phải là người không thể đoán trước được, không thể theo logic được. Hắn
phải phi logic - tới mức không ai có thể đoán trước được. Nhưng phi logic chỉ
có thể nếu toàn bộ năng lượng của bạn chuyển qua bán cầu não phải.
Bị khóa trong rương người con rất
tức giận, hoảng sợ và bối rối không biết làm cách nào để thoát ra.
“Làm cách nào” là một câu hỏi logic. Vì
vậy anh ta hoảng sợ bởi lẽ không có cách nào - đơn giản “làm cách nào” là bất khả.
Thế rồi
một ý tưởng lóe lên trong đầu - bấy giờ đấy là sự thay đổi. Chỉ trong tình
huống nguy hiểm khi mà bán cầu não trái không thể hoạt động được nữa, như một
phương sách cuối cùng, nó cho phép bán cầu não phải lên tiếng. Khi không thể
hoạt động, khi cảm thấy chẳng còn chỗ thoát, thất bại là chắc, nó mới nói sao
không cho cái phần tâm trí bị đè nén, bị cầm tù kia một cơ hội? Cũng là cho
chính nó một cơ hội nữa. Chắc là... đâu hề hấn gì.
Thế rồi
một ý tưởng lóe lên trong đầu, anh ta giả làm tiếng mèo kêu.
Bấy giờ
đấy không phải là logic. Giả làm tiếng mèo kêu? Đơn giản là một ý tưởng ngớ
ngẩn. Song nó lại hiệu quả.
Gia chủ sai đứa hầu gái thắp nến
và kiểm tra cái rương.
Khi chốt rương bật ra, người con
nhảy ra ngoài, thổi tắt nến, phóng vụt qua mặt người hầu gái đang hoảng hốt rồi
chạy mất. Người nhà đuổi theo.
Thấy một giếng nước bên đường,
anh ta ném một hòn đá lớn xuống đó rồi núp vào bóng tối. Đám người đuổi theo bu
quanh giếng nước cố nhìn xem tên trộm đang bị chìm.
Đấy cũng
không phải là tâm trí logic. Bởi vì tâm trí logic cần thời gian - tâm trí logic
cần thời gian để xử lí, để nghĩ, để lập luận cách này hay cách khác, tất cả các
phương án. Và có cả ngàn lẻ một phương án. Nhưng khi đang ở trong tình huống đó
không có thời gian để nghĩ. Nếu đang bị người ta đuổi theo làm thế nào mà nghĩ
được? Suy nghĩ thì tốt khi ngồi trong ghế bành. Nhắm mắt và bạn có thể triết
lí, nghĩ ngợi, lập luận, tán thành điều này phản đối điều kia, theo và chống.
Nhưng khi người ta đuổi theo bạn và tính mạng của bạn trong vòng nguy hiểm, bạn
làm gì có thời gian mà nghĩ - người ta sống trong một khoảnh khắc, đơn giản
người ta trở nên tự phát. Không phải là người con quyết định ném hòn đá, đơn giản là chuyện ấy xảy ra. Đó không phải là kết luận, anh ta không nghĩ về việc ấy,
đơn giản là anh ta thấy mình làm như vậy. Anh ta ném hòn đá xuống giếng rồi núp vào
bóng tối. Và đám người đuổi theo dừng lại, nghĩ rằng tên trộm bị chìm dưới
giếng.
Khi về đến nhà, đứa con rất giận
cha mình và cố kể lại chuyện xảy ra; song người cha nói: “Đừng băn khoăn kể lể
chi tiết làm gì. Con đã về đây nghĩa là con đã học được nghệ thuật rồi”.
Kể lể chi
tiết thì có gì quan trọng? Điều đó vô ích.
Trong
chừng mực liên quan đến trực giác thì chi tiết chẳng có ích lợi gì bởi lẽ trực
giác không bao giờ lặp lại. Chi tiết chỉ có ý nghĩa trong chừng mực liên quan
đến logic; thế nên những người logic vẫn cứ đi sâu vào chi tiết, để nếu có tình
huống tương tự xảy ra, họ có thể kiểm soát được và sẽ biết phải làm gì. Nhưng
trong cuộc đời đạo chích thì tình huống tương tự không bao giờ lặp lại.
Và trong
cuộc sống thực tình huống tương tự cũng không bao giờ lặp lại. Nếu bạn có kết
luận trong đầu thì coi như bạn trở thành người chết, bạn sẽ không đáp trả. Mà
trong cuộc sống thì cần thiết sự đáp trả chứ không phải phản ứng: bạn phải hành
động tức thời, không có kết luận trong đầu. Bạn phải hành động không cần bất cứ
trung tâm nào của cơ thể - bạn phải hành động từ cái chưa biết đến cái chưa
biết.
Và đó là
những gì Goso Hoyen thường nói khi người ta hỏi ông Thiền là gì. Ông sẽ kể câu
chuyện này. Chính xác thì Thiền giống như nghề đạo chích! Nó là một nghệ thuật
chứ không phải khoa học. Nó mang nữ tính chứ không phải nam tính; nó không hung
hăng mà là tiếp nhận. Nó không phải là phương pháp luận được hoạch định kĩ
lưỡng mà tự phát. Nó không liên quan gì đến lí thuyết, giả thuyết, học thuyết,
kinh sách; nó chỉ liên quan đến một thứ duy nhất, đó là nhận thức.
Điều gì
xảy ra tại khoảnh khắc mà đứa con bị khóa trong rương? Vào khoảnh khắc nguy
hiểm như thế bạn không thể ngủ được, vào khoảnh khắc nguy hiểm như thế ý thức
trở nên sắc bén - phải thế thôi. Khí mạng sống như mành treo chuông, bạn phải
hoàn toàn tỉnh thức.
Đó là
cách mà người ta phải hoàn toàn tỉnh thức trong từng khoảnh khắc. Khi bạn hoàn
toàn tỉnh thức thì sự chuyển biến xảy ra. Năng lượng dịch chuyển từ bán cầu não
trái sang bán cầu não phải.
Bất cứ
lúc nào tỉnh thức, bạn trở nên có trực giác; những lóe chớp đến với bạn, những
lóe chớp từ cái chưa biết, hoàn toàn bất ngờ. Bạn có thể không đi theo chúng -
thế thì bạn sẽ bỏ lỡ nhiều thứ.
Bất cứ
lúc nào bạn bị dồn vào chân tường và logic chịu bó tay, đừng liều mạng, đừng
tuyệt vọng. Những khoảnh khắc đó có thể chứng tỏ được phúc lành tuyệt diệu nhất
trong đời. Những khoảnh khắc mà bán cẩu trái cho phép bán cầu phải hoạt động
theo cách của nó. Thế thì phần nữ tính, phần tiếp nhận, sẽ cho bạn ý tưởng. Nếu
theo nó thì nhiều cánh cửa sẽ được mở. Song bạn có thể bỏ lỡ; bạn có thể nói:
“Thật vớ vẩn!”
Đứa con
có thể bỏ lỡ. Ý tưởng không bình thường, không thông thường, không logic cho lắm - giả làm tiếng mèo kêu? Để làm gì? Anh ta có thể hỏi: “Tại sao?” và
thế thì anh ta sẽ bỏ lỡ. Nhưng anh ta không thể hỏi bởi lẽ tình huống là như
vậy - không có cách nào khác. Thế nên anh ta nghĩ: “Hãy thử xem. Có thiệt hại
gì đâu?”. Anh ta đã lần ra manh mối.
Người cha
đã đúng. Ông nói: “Đừng đi vào chi tiết, chẳng có gì quan trọng. Một khi con về
nhà, nghĩa là con đã học được nghệ thuật”.
Toàn bộ
nghệ thuật là làm cách nào để vận hành phần nữ tính của tâm trí - bởi lẽ phần
nữ tính được nối với cái toàn thể, còn phần nam tính thì không được nối với cái
toàn thể. Phần nam tính thì hung hăng, thường xuyên thích tranh đấu - còn phần
nữ tính thì luôn nhu thuận, dễ tin tưởng. Vì vậy cơ thể phụ nữ mới tròn trịa và
đẹp đẽ như thế. Có sự tin tưởng sâu sắc và hài hòa với tự nhiên. Người phụ nữ
sống trong sự nhu thuận sâu sắc - còn đàn ông thì thường xuyên tranh đấu, nóng
nảy, hết làm cái này lại làm cái khác, cố chứng tỏ điều gì đó, cố đạt được điều
gì đó.
Hãy hỏi
phụ nữ xem họ có muốn lên mặt trăng hay không. Đơn giản họ sẽ lấy làm ngạc
nhiên - để làm gì? Với mục đích gì? Sao phải chuốc lấy phiền toái như vậy? Ở
nhà là quá tốt rồi. Phụ nữ quan tâm nhiều hơn đến thứ trước mắt, ở đây, bây
giờ, và điều đó mang lại cho họ sự hài hòa, duyên dáng. Đàn ông cứ khăng khăng
chứng tỏ điều gì. Nếu muốn chứng tỏ, lẽ dĩ nhiên bạn phải tranh đấu, phải ganh
đua, phải tích lũy.
Có lần
một phụ nữ cố tìm cách để bác sĩ Johnson nói chuyện với bà, song dường như ông
ta lại không mấy chú ý đến.
“Sao vậy,
thưa bác sĩ?” Bà ta hóm hỉnh, “tôi tin là ông thích phái nam hơn là phái nữ.”
“Thưa bà,”
Johnson trả lời, “tôi rất mến mộ phái nữ, tôi thích vẻ đẹp, tôi thích sự duyên
dáng, tôi thích sự hoạt bát của quý bà... và tôi thích sự im lặng của quý bà
nữa.”
Nam giới
muốn buộc phụ nữ phải im lặng không chỉ bên ngoài mà cả bên trong - nghĩa là
buộc cái phần nữ tính phải im lặng. Hãy quan sát bên trong con người bạn. Nếu
phần nữ tính lên tiếng, ngay lập tức bạn sẽ nhảy dựng lên và nhủ rằng: “Thật
phi lí, thật ngớ ngẩn!”. Bác sĩ Johnson muốn phụ nữ phải im lặng.
Trái tim
thuộc về phần nữ tính. Bạn bỏ lỡ nhiều thứ trong đời vì cái đầu cứ lên tiếng
suốt; nó không cho trái tim cất tiếng. Mà phẩm chất duy nhất của cái đầu là nó
mạch lạc hơn, mánh khóe hơn, nguy hiểm hơn, bạo lực hơn. Cũng do tính bạo lực
mà nó đã trở thành kẻ chỉ huy bên trong, và sự chỉ huy bên trong trở thành sự
chỉ huy bên ngoài của nam giới. Đàn ông cũng lấn át phụ nữ trong thế giới bên
ngoài; sự duyên dáng bị bạo lực lấn át.
Mulla
Nasruddin được mời tới điều hành một trường học. Ở đó học sinh đứng xếp hàng và
hàng ngũ được sắp xếp theo thứ tự chiều cao - từ em thấp nhất tới em cao nhất.
Nhưng Mulla nhận thấy trật tự bị đảo lộn bởi một cậu bé đứng ở đầu hàng. Thằng
bé ấy cao lênh khênh hơn hẳn đám trẻ cả cái đầu. “Sao cậu ta lại đứng trước?” -
Mulla thắc mắc. Ông hỏi một bé gái:
“Có phải
cậu ta là trưởng ban học sinh, hay lớp trưởng, hay đại loại thế không?”
“Không,”
cô bé trả lời, “nó bắt nạt mọi người đấy.”
Tâm trí
nam giới luôn dằn vặt, gây rắc rối - những kẻ gây rối lại trở thành lãnh đạo. Ở
trường học, tất cả những giáo viên khôn ngoan đều chọn những học sinh gây rắc
rối nhiều nhất để làm lớp trưởng - những kẻ gây rối, những kẻ phá phách. Một
khi được giao chức vụ có quyền lực, toàn bộ năng lượng của chúng dành cho việc
gây rối sẽ trở nên hữu ích cho giáo viên. Chúng bắt đầu thiết lập trật tự - vẫn
những học sinh đó thôi!
Hãy quan
sát những chính trị gia trên thế giới: khi một đảng nắm quyền thì đảng đối lập
ra sức gây rối cho đất nước. Họ là những kẻ phá luật, những nhà cách mạng, còn
đảng cầm quyền thì ra sức thiết lập kỉ cương. Nhưng một khi bị lật đổ thì chính
họ lại là người gây rối. Và một khi
đảng đối lập nắm quyền thì họ lại trở thành những người canh giữ kỉ cương.
Tất cả
bọn họ đều là những kẻ gây rối.
Tâm trí
nam giới là hiện tượng gây rối - vì vậy nó cứ áp đảo, cứ lấn át. Nhưng sâu bên
trong, cho dù có thể đạt được quyền lực, bạn vẫn bỏ lỡ cuộc sống - và sâu bên
trong, tâm trí nữ giới vẫn tiếp tục âm ỉ. Trừ phi bạn quay lại với tâm trí nữ
giới và trở nên nhu thuận, trừ phi bạn từ bỏ sự kháng cự và đấu tranh, bằng
không bạn sẽ không biết được cuộc sống thực và lễ hội của nó.
Tôi có
nghe một chuyện vui:
Một nhà
khoa học Hoa Kì đến thăm văn phòng của nhà vật
lí vĩ đại đoạt giải Nobel Niels Bohr ở Copenhagen và lấy làm ngạc nhiên khi
thấy phía trên bàn làm việc của ông có một chiếc móng ngựa. Nó được đóng chắc
chắn vào tường với phần mở hướng lên trên theo đúng lệ, như để hứng hết may mắn
và không để nó lọt ra ngoài. Nhà khoa học Hoa Kì
vừa nói vừa cười lớn:
“Chắc
chắn là ông không tin rằng cái móng ngựa sẽ mang lại may mắn cho ông, có phải
không thưa giáo sư Bohr? Nhất là với một nhà khoa học hàng đầu...”
Bohr cười
khúc khích:
“Tôi
chẳng tin những chuyện như vậy, bạn thân mến, không một chút nào. Tôi hầu như
chắc chắc là không tin vào mấy chuyện vớ vẩn ngốc nghếch như vậy. Tuy nhiên,
tôi có nghe nói rằng một cái móng ngựa sẽ mang lại may mắn bất kể bạn có tin
vào chuyện đó hay không.”
Hãy nhìn
sâu hơn một chút, và chỉ sâu hơn bên dưới logic của mình, bạn sẽ thấy nguồn
nước mát lành của trực giác, nguồn mát lành của niềm tin đang tuôn tràn.
Thiền là
phương cách của tự phát - nỗ lực không cố gắng, phương cách của trực giác.
Thiền sư Ikkyu, một nhà thơ lớn, đã nói: “Tôi có thể thấy mây bay ngàn dặm xa,
nghe được nhạc cổ trong rặng thông”.
Đấy là
tất cả những gì về Thiền. Bạn không thể thấy mây bay ngàn dặm xa với tâm trí
logic. Tâm trí logic tựa như một tấm kính quá bẩn, bị phủ quá nhiều lớp bụi của
ý tưởng, lí thuyết, học thuyết. Nhưng bạn có thể thấy mây bay ngàn dặm xa với
tấm kính trong trẻo của trực giác, không có ý nghĩ - chỉ có nhận thức trong trẻo.
Tấm gương sạch bong và trong trẻo vô ngần.
Bạn không
thể nghe được nhạc cổ trong rặng thông với tâm trí logic bình thường. Làm sao
bạn có thể nghe được tiếng nhạc từ xa xưa? Một khi tiếng nhạc đã tắt thì sẽ tắt
lịm vĩnh viễn.
Nhưng tôi
nói với bạn là Ikkyu hoàn toàn đúng. Bạn có thể nghe được nhạc cổ trong rặng
thông - tôi đã nghe - song phải cần một bước chuyển, một thay đổi toàn diện,
thay đổi cấu trúc. Thế thì bạn lại có thể thấy Phật thuyết pháp và nghe được
lời ngài. Bạn có thể nghe được nhạc cổ trong rặng thông bởi vì đó là âm nhạc
của vĩnh hằng, không bao giờ tắt lịm. Bạn đã mất khả năng nghe được nó. Âm nhạc
là vĩnh hằng; một khi bạn khôi phục được khả năng thì đột nhiên nó lại ở đó. Nó
luôn ở đó, chỉ có bạn là không ở đó thôi.
Hãy
ở-đây-và-bây-giờ và bạn cũng có thể thấy mây bay ngàn dặm xa và nghe được nhạc
cổ trong rặng thông.
Hãy
chuyển dần về bán cầu não phải thật nhiều, trở nên nhiều nữ tính hơn, nhiều yêu
thương hơn, nhu thuận hơn, tin tưởng hơn, tiến gần hơn đến cái toàn thể. Đừng
cố làm một hòn đảo - hãy trở thành một phần của lục địa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét