Phạm Ngọc dịch từ
nguyên tác tiếng Nga trong "Những mẩu chuyện Kolyma" của Varlam
Shalamov, Nxb Exmo-Press 2007
Thánh tông đồ Pavel
Khi tôi bị trật khớp bàn chân do trượt ngã khỏi
chiếc thang trơn tuột làm từ những cây sào trong giếng khoan thăm dò, sếp quản giáo
biết rõ là tôi còn phải khập khiễng khá lâu, và vì không được để ai ăn không
ngồi rồi, họ điều tôi làm thợ phụ cho thợ mộc Adam Frizorger, cả hai chúng tôi
- Frizorger và tôi - đều rất vui mừng.
Trong quãng đời trước kia của mình, Frizorger từng
là mục sư tại một ngôi làng kiều dân Đức nào đó gần Marxstadt bên bờ Volga. Tôi
gặp ông trong một đợt chuyển trại lớn vào thời gian cách li vì bệnh chấy rận và
cùng đến đây, khu vực thăm dò than đá. Frizorger, cũng như tôi, đã từng ở
taiga, trong trạng thái kiệt quệ và nửa điên nửa tỉnh ở khu mỏ khi chuyển trại.
Họ chuyển chúng tôi đến khu vực thăm dò than đá như những kẻ tàn tật, những người
phụ trợ - trong khi đội ngũ công nhân "biên chế" được tập hợp từ
những người làm thuê tự do. Thật vậy, đó là những người đã từng bị tù, vừa mới
mãn "khóa", hay mãn hạn, và được gọi trong trại bằng cái tên bán tín
bán nghi là "bọn tự do". Tại thời điểm chuyển trại trong số bốn chục
người làm thuê tự do này khó mà đào đâu ra được hai rúp khi cần mua thuốc lá, nhưng
nói cho cùng đó không phải những người anh em bạn tù của chúng tôi. Mọi người
đều hiểu là sau hai ba tháng nữa, họ sẽ rũ bỏ quần áo tù, có thể uống đến say,
được cấp hộ chiếu, và có lẽ, sau một năm sẽ về nhà. Những tia hi vọng ấy còn
ngời ngời lên hơn khi Paramonov, trưởng đoàn thăm dò, hứa hẹn với họ những khoản
thu nhập lớn và khẩu phần ăn hoàn toàn khác hẳn. "Các cậu sẽ tươm tất khi
về nhà", - thủ trưởng thường xuyên nhấn mạnh với họ như đinh đóng cột. Với
chúng tôi, những tù nhân, không có chuyện về quần áo và khẩu phần ăn tươm tất.
Nói chung, ông ta không thô lỗ với bọn tôi. Người ta
không cấp cho ông tù nhân, mà là năm người phục vụ - đó là tất cả những gì
Paramonov có thể nhận được khi đề đạt với cấp trên.
Khi chúng tôi, còn chưa biết nhau, được gọi từ lán
theo danh sách và trình diện trước đôi mắt sáng và thấu suốt của ông, ông hoàn
toàn hài lòng về việc thẩm vấn. Một người trong bọn là thợ đốt lò, một tay hóm
hỉnh người vùng Yaroslav, có bộ ria bạc, tên Izgibin, chưa đánh mất sự lanh lợi
bẩm sinh trong trại. Bản lĩnh đã giúp anh ta phần nào, và trông anh ta không
kiệt quệ như những người còn lại. Người thứ hai là gã khổng lồ chột mắt vùng
Kamenets-Podolsk - "thợ lò hơi đầu tàu hỏa", như được giới thiệu với
Paramonov.
- Nghĩa là có thể biết chút ít công việc của thợ
nguội, - Paramonov bảo.
- Vâng, có thể ạ, - tay thợ lò hơi hào hứng khẳng
định. Từ lâu anh ta đã hình dung ra cái lợi của công việc như thợ làm thuê tự
do.
Người thứ ba là kĩ sư nông học Ryazanov. Chuyên môn
này khiến Paramonov rất khoái chí. Tất nhiên bộ đồ giẻ rách của tay kĩ sư nông
học này chẳng có gì đáng gây chú í cả. Song trong trại người ta không đánh giá
kẻ khác theo trang phục, và Paramonov khá rành về trại cải tạo.
Người thứ tư là tôi. Tôi không phải thợ đốt lò,
không phải thợ nguội, cũng chẳng phải kĩ sư nông học. Nhưng vóc dáng cao lớn
của tôi rõ ràng khiến Paramonov iên tâm, hơn nữa chẳng đáng gì phải sửa lại cả
danh sách chỉ vì một gã. Ông gật đầu.
Tuy nhiên người thứ năm trong bọn có cử chỉ rất lạ
lùng. Ông ta lẩm nhẩm cầu nguyện và lấy tay che mặt, không nghe lời Paramonov
nói. Nhưng thủ trưởng cũng chẳng lấy thế làm lạ. Paramonov quay sang người phụ
trách phân công đang đứng đó, giữ trong tay chồng bìa kẹp màu vàng - được gọi
là "hồ sơ cá nhân".
- Anh ta là thợ mộc, - người phụ trách nói, đoán
được câu hỏi của Paramonov. Việc tiếp nhận hoàn thành, người ta đưa cả bọn tôi
đến khu thăm dò mỏ than.
Frizorger sau này kể lại với tôi là khi được gọi
lên, ông cứ nghĩ người ta đem ông đi bắn, cán bộ điều tra đã dọa ông như thế
khi còn ở khu mỏ. Chúng tôi sống cùng lán suốt một năm, và chưa lần nào cãi
nhau. Đó là chuyện hiếm có giữa bọn trong trại cải tạo cũng như trong tù. Cãi
nhau thường phát sinh vì những chuyện vớ vẩn chả ra đâu vào đâu, ngay lập tức
chửi bới hăng đến mức, dường như tiếp theo chỉ còn mỗi nước giải quyết bằng
dao, chứ bằng que cời lò sưởi là còn tốt chán. Tôi nhanh chóng học được cách
không coi nặng lời chửi bới. Hạ nhiệt mau chóng, và nếu như cả hai còn tiếp tục
chửi qua chửi lại một cách uể oải, thì đó chẳng qua chỉ cho có lệ, gọi là giữ
"thể diện".
Nhưng với Frizorger tôi chưa hề cãi nhau lần nào.
Tôi nghĩ, đó là do công lao của Frizorger, hoặc giả chưa có ai hòa nhã như ông.
Ông chẳng mạt sát ai bao giờ, rất ít nói. Giọng ông già dặn, du dương, song sự
du dương như cố tình nhấn nhá. Giọng của những kịch sĩ trẻ trong nhà hát khi
đóng vai ông già. Trong trại nhiều người cố tỏ vẻ già dặn và iếu sức khỏe hơn
thực tế (và họ cũng khá thành công). Tất cả điều đó được thể hiện không phải
lúc nào cũng do cố í tính toán, mà là do bản năng. Đời trớ trêu thay, ở đây quá
nửa số người tự tăng tuổi đời và tự giảm sức lực lại lâm vào tình trạng còn
nặng nề hơn như họ muốn tỏ ra.
Tuy nhiên, không có chút xíu giả vờ nào trong giọng
nói của Frizorger.
Mỗi sáng và mỗi tối ông đều lầm rầm cầu nguyện, quay
lưng lại phía mọi người và nhìn chăm chăm xuống sàn, còn nếu như có tham gia
câu chuyện chung thì chỉ nói về đề tài tín ngưỡng, có nghĩa là rất hiếm khi, vì
đám tù không thích đề cập đến chuyện tín ngưỡng. Lão Izgibin, một tay chuyên ăn
nói thô tục, đã toan chọc ghẹo Frizorger, nhưng lời châm chích của lão đụng
phải nụ cười hiền lành của Frizoger cứ như thể thuốc súng mà đem nhúng nước. Cả
đội đều iêu mến Frizorger, kể cả Paramonov, người mà Frizorger đã hì hục cả nửa
năm trời để đóng tặng cái bàn giấy tuyệt đẹp.
Giường chúng tôi sát nhau, chúng tôi thường trò
chuyện, đôi lúc Frizorger tỏ vẻ ngạc nhiên, khua đôi bàn tay nhỏ nhắn một cách trẻ
con, khi bắt gặp ở tôi kiến thức phổ thông nào đó về lịch sử phúc âm - những
hiểu biết, mà theo tâm hồn giản dị của ông, chỉ được phổ biến trong nhóm tín
ngưỡng hẹp. Ông cười hì hì và rất hài lòng khi tôi cũng có những hiểu biết
tương tự. Và trong lúc hứng chí, ông bắt đầu giảng cho tôi nghe về phúc âm,
những điều tôi không nhớ rõ hoặc chưa biết bao giờ. Ông rất thích những cuộc
trò chuyện như thế.
Nhưng một bận, Frizorger bị nhầm lẫn khi kể tên mười
hai vị tông đồ. Tôi gọi tên thánh tông đồ Pavel. Với sự tự tin về hiểu biết của
mình và luôn cho rằng tông đồ Pavel là người thực sự sáng lập đạo Thiên chúa,
là lãnh tụ giáo lí căn bản, thêm hiểu biết đôi chút về tiểu sử của tông đồ này,
tôi không bỏ lỡ cơ hội để sửa sai Frizorger.
- Không, không, - Frizorger cười bảo - anh chưa rõ.
- Và ông bắt đầu gập từng ngón tay. - Này, Peter, Paul, Marcus...
Tôi kể cho ông nghe tất tật những gì biết được về
tông đồ Pavel. Ông lắng nghe tôi rất chăm chú không thốt một lời. Đã khá khuya,
cần phải đi ngủ. Suốt đêm, khi tôi đã chợp mắt, trong ánh đèn dầu lập lòe khói
tỏa, đôi mắt Frizorger mở thao láo, tôi thoảng nghe tiếng thì thầm: "Lạy
Chúa, xin Người cứu rỗi! Peter, Paul, Marcus..." Ông thức cho đến sáng.
Sáng dậy, ông ra chỗ làm sớm, và chiều tối về lán rất muộn, khi tôi đã ngủ rồi.
Tôi thức giấc vì tiếng thổn thức âm thầm. Frizorger đang quỳ gối và cầu nguyện.
- Ông sao vậy? - Đợi đến hết buổi cầu nguyện tôi mới
hỏi ông.
Frizorger lần bàn tay tôi và nắm chặt.
- Anh đúng, - ông bảo. - Paul không phải trong số
mười hai tông đồ. Tôi quên về thánh Bartholomew.
Tôi im lặng.
- Anh ngạc nhiên vì sao tôi khóc? - ông bảo - Thật
đáng hổ thẹn. Tôi không thể, không được phép quên những điều này. Tội lỗi, thật
tội lỗi. Tôi, Adam Frizorger, đã để người khác vạch ra lỗi lầm không thể nào
tha thứ được. Không, không, anh không hề có lỗi gì, người có lỗi chính là tôi,
tội của tôi. Song thật là tốt khi anh đã sửa cho tôi. Mọi việc sẽ tốt đẹp.
Tôi khó mà làm ông iên lòng, và từ khi ấy (trước khi
tôi bị trật chân chưa được bao lâu) chúng tôi trở thành đôi bạn thân thiết.
Một lần, khi trong xưởng không có ai, Frizorger móc
từ trong túi áo cái ví bằng vải cáu bẩn và ngoắc tôi ra phía cửa sổ.
- Xem này, - ông nói, chìa cho tôi xem tấm ảnh chụp
lấy liền nhỏ xíu có nếp gấp. Đó là ảnh một phụ nữ trẻ, với vẻ mặt rất tình cờ
như mọi tấm ảnh chụp lấy liền khác. Tấm ảnh nứt nẻ ố vàng được dán cẩn thận lên
tấm giấy màu.
- Con gái tôi đấy, - Frizorger nói, vẻ trịnh trọng.
- Cô con gái duy nhất. Vợ tôi mất sớm. Con gái không viết thư cho tôi, chắc là
không biết địa chỉ. Tôi viết thư cho nó rất nhiều, bây giờ vẫn viết. Chỉ mỗi
cho nó thôi. Tôi chưa cho ai xem tấm hình này. Tôi mang theo từ nhà. Sáu năm trước
tôi lấy từ trong rương.
Paramonov bước qua cửa xưởng không một tiếng động.
- Con gái à? - ông ta hỏi, nhìn lướt qua tấm ảnh.
- Vâng, con gái, thưa thủ trưởng, - Frizorger mỉm
cười đáp.
- Có viết thư không?
- Không ạ.
- Sao lại quên ông già thế nhỉ? Làm đơn đề nghị tìm
người thân đi, tôi gửi cho. Chân anh sao rồi?
- Tôi vẫn cà nhắc, thưa thủ trưởng.
- Ừ, vẫn cà nhắc, cứ cà nhắc. - Paramonov bước ra.
Từ đó, không còn dấu diếm gì tôi, mỗi khi kết thúc
cầu kinh buổi tối và đặt lưng xuống giường, Frizorger cầm tấm hình con gái và
vuốt ve cái rìa màu.
Chúng tôi sống bình iên như thế gần nửa năm, cho đến
một lần người ta chuyển bưu phẩm tới. Paramonov đi công tác và nhận bưu phẩm là
thư kí của ông ta, Ryazanov, một trong số những tù nhân, lúc này hầu như không
còn là kĩ sư nông học nữa, mà là chuyên gia về quốc tế ngữ; nói chung, điều đó
cũng không cản trở anh ta khéo léo lột da ngựa chết, uốn cong ống sắt dầy bằng
cách nhồi đầy cát vào bên trong và nung trên đống lửa, và sắp xếp công việc văn
phòng của thủ trưởng.
- Xem đi, - anh ta bảo tôi, - người ta gửi cho
Frizorger lá đơn như thế này đây.
Trong bì thư có công văn của nhà nước iêu cầu cho tù
nhân Frizorger (tội danh, hạn tù) đọc bản sao đính kèm đơn đề nghị của con gái
ông ta. Trong đơn, cô ta viết ngắn gọn và rõ ràng, sau khi tin chắc cha mình là
kẻ thù của nhân dân, cô ta tuyên bố từ ông và đề nghị không công nhận mối quan
hệ ruột thịt trước kia.
Ryazanov xoay xoay tờ giấy trong tay.
- Tởm thật, - anh bảo. - Cô ta cần thế làm quái gì
nhỉ? Để vào đảng chắc?
Tôi lại nghĩ về chuyện khác: gửi cho người cha đang
bị tù lá đơn như thế để làm gì? Phải chăng đó là một dạng gần như bạo dâm, tựa
như thực tập báo tin cho người thân về cái chết giả của tù nhân, hoặc đơn giản
là muốn thực hiện theo luật định? Hoặc là cái gì khác nữa chăng?
- Nghe này, Vanyuska, - tôi bảo Ryazanov. - Cậu đã
vào sổ bưu phẩm chưa?
- Đã kịp đâu, vừa mới đến.
- Vậy đưa tớ phong bì đó. - Và tôi kể cho Ryazanov
đầu đuôi câu chuyện.
- Còn bức thư? - anh ta nói, không tự tin cho lắm. -
Có lẽ cô ta sẽ viết cho ông ấy.
- Cậu cũng giữ bức thư lại nhé.
- Này, cầm lấy.
Tôi vo nát phong bì và ném nó qua cửa lò sưởi đang
cháy đỏ.
Một tháng sau có thư đến, bức thư ngắn, cũng giống
như lá đơn, và chúng tôi cũng đốt nó trong cái lò sưởi ấy.
Chẳng bao lâu tôi bị chuyển đi, còn Frizorger ở lại,
tôi không rõ ông ta sau này ra sao. Tôi thường nhớ về ông, những khi còn đủ sức
để nhớ lại. Tôi nghe thấy giọng thì thầm run run đầy lo lắng của ông:
"Peter, Paul, Marcus..."
1954
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét