ĐẠO: CON ĐƯỜNG KHÔNG LỐI
Phạm Ngọc dịch từ “Tao: The Pathless Path”, Renaissance Books, St.
Martin's Press, New York © 2002
Để tôi kể bạn nghe vài chuyện vui.
Trong tác phẩm lớn của Samuel Beckett, Trong khi chờ Godot, diễn ra tình tiết
nhỏ này. Hãy suy gẫm về nó.
Hai kẻ lang thang, Vladimir và Estragon, trên sân
khấu. Họ ở đó để đợi – cũng như mọi người khác trên thế gian này đều đợi; chẳng
ai biết đích xác đợi cái gì. Mọi người đều đợi, hi vọng là điều gì đó sẽ xảy
ra. Hôm nay không xảy ra thì ngày mai sẽ xảy ra. Đó là tâm trí con người: hôm
nay đang bị phí hoài, song vẫn cứ hi vọng ngày mai điều gì đó sẽ xảy ra. Và hai
kẻ lang thang ấy đang ngồi dưới gốc cây và chờ đợi... chờ đợi Godot.
Chẳng ai biết đích xác ông Godot này là ai. Từ này
nghe giống God (Thượng đế) nhưng chỉ nghe giống thôi, chứ thực tế thì những vị
thượng đế mà bạn đang chờ đợi là tất cả những ông Godot. Bạn đã tạo ra họ bởi
vì người ta phải chờ đợi một điều gì đó, bằng không làm sao bạn chịu đựng nổi
hiện hữu? Để làm gì? Làm cách nào bạn trì hoãn cuộc sống được? Làm cách nào bạn
hi vọng được? Cuộc sống sẽ trở nên không thể chịu đựng nổi, bất khả, nếu như
không có gì để chờ đợi. Ai đó chờ đợi tiền tài, và ai đó chờ đợi quyền lực, và
ai đó chờ đợi chứng ngộ, và ai đó chờ đợi điều gì khác nữa; nhưng mọi người đều
chờ đợi. Rồi những kẻ chờ đợi là những kẻ bỏ lỡ.
Hai kẻ lang thang ấy ở đó chỉ để chờ. Điều họ đang
chờ là một người sẽ đến, ông Godot, người được mong đợi cấp cho họ chỗ trú và
thức ăn. Trong khi chờ, họ giết thời gian bằng chuyện phiếm, chuyện đùa, trò
chơi và cãi vặt...
Đó là thực chất cuộc sống của bạn: trong khi chờ
đợi người ta loay hoay với những điều nhỏ nhặt. Điều lớn lao sẽ xảy ra ngày
mai. Ngày mai Godot sẽ tới. Hôm nay người ta còn đang cãi vã – vợ cãi chồng,
chồng cãi vợ. Những điều nhỏ nhặt: chuyện phiếm, chuyện đùa, trò chơi... nhạt
nhẽo và rỗng tuếch. Hôm nay, đó là những gì mọi người cảm thấy: nhạt nhẽo, rỗng
tuếch... “Chẳng được tích sự gì” là điệp khúc ngân đi ngân lại... Họ lặp đi lặp
lại “Chẳng được tích sự gì”, song thế rồi họ tự an ủi mình “nhưng ngày mai ông
ta sẽ tới”. Mà thực ra ông ta chưa bao giờ hứa với họ, họ chưa bao giờ gặp ông
ta – đó là chuyện bịa. Người ta phải bịa đặt, do đau khổ mà người ta phải bịa
ra cái ngày mai và cái gì đó để bám víu. Thượng đế của bạn, cõi trời của bạn,
thiên đàng của bạn, giải thoát của bạn, toàn là chuyện bịa. Đạo không nói về
chúng.
Vở kịch của Samuel Beckett, Trong khi chờ Godot, về cốt tủy thấm đẫm tinh thần Đạo giáo.
Giữa màn một, hai kẻ lạ, Pozzo và Lucky, la lối
trên sân khấu. Pozzo dường như là một phú gia; còn Lucky, người hầu, được dẫn
tới khu chợ gần đó để đem bán. Pozzo kể với những kẻ lang thang về những đức
tính của Lucky mà điểm nổi bật nhất là hắn có thể nghĩ. Để cho họ thấy, Pozzo quất roi và ra lệnh “Nghĩ đi!” rồi tiếp
theo đó là “màn độc thoại lảm nhảm cuồng si mà trong đó những mảnh vụn thần
học, khoa học, thể thao và lời giảng hỗn hợp chen chúc lộn xộn với nhau cho đến
khi ba người kia lao vào hắn và làm hắn im miệng.”
Bạn đang nghĩ gì? Bạn định nói gì khi bạn nói “Tôi
đang nghĩ”? Đó là “màn độc thoại lảm nhảm cuồng si mà trong đó những mảnh vụn
thần học, khoa học, thể thao và lời giảng hỗn hợp chen chúc lộn xộn”... cho đến
khi cái chết đến và khiến bạn im miệng. Toàn bộ suy nghĩ của bạn là gì? Bạn có
thể nghĩ gì? Có gì ở đó mà nghĩ? Và qua suy nghĩ làm cách nào người ta có thể
đến được chân lí? Suy nghĩ không thể nặn ra chân lí. Chân lí là trải nghiệm, và
trải nghiệm chỉ xảy ra khi suy nghĩ không còn nữa.
Thế nên Đạo nói rằng thần học sẽ chẳng ích gì,
triết học sẽ chẳng ích gì, logic học sẽ chẳng ích gì, lập luận sẽ chẳng ích gì.
Bạn có thể vẫn cứ nghĩ hoài nghĩ mãi, rồi nó sẽ chẳng là gì ngoài bịa đặt – bịa
đặt thuần túy của tâm trí con người để che giấu cái ngu xuẩn của riêng nó. Và
thế rồi bạn có thể cứ tiếp tục mãi, giấc mơ này có thể dẫn tới giấc mơ khác,
rồi giấc mơ khác lại có thể dẫn bạn đến giấc mơ khác nữa... mơ ở trong mơ ở
trong mơ – đó là những gì mà toàn bộ triết học, thần học là như thế đó.
Mơ ở trong mơ ở trong mơ... đấy là cách tâm trí cứ
tiếp diễn mãi. Một khi bạn bắt đầu mơ, không có kết thúc nào cho nó; và thứ mà
bạn gọi là nghĩ thì tốt hơn nên gọi là mơ – nó không phải là nghĩ.
Nên nhớ là chân lí không cần suy nghĩ, nó cần trải
nghiệm. Khi bạn thấy mặt trời và ánh sáng bạn không nghĩ về nó, bạn thấy nó.
Khi bạn bắt gặp một đóa hồng bạn không nghĩ
về nó, bạn thấy nó. Khi hương thơm
lan tỏa tới mũi bạn, bạn ngửi nó, bạn không nghĩ về nó. Bất cứ khi nào bạn ở
gần thực tại, chẳng cần phải nghĩ – thế thì thực tại là đủ rồi, thế thì trải
nghiệm là đủ rồi. Khi bạn ở xa thực tại, bạn nghĩ; bạn thay thế thực tại bằng
suy nghĩ. Một người đã ăn ngon đêm ngủ sẽ không mơ mình được mời ăn tiệc. Một
người nhịn đói cả ngày nhất định đêm ngủ sẽ mơ mình được mời ăn tiệc. Một người
thỏa mãn tình dục sẽ không mơ về những đối tượng tình dục. Đó là toàn bộ phân
tâm học của Freud; bạn mơ về những thứ bị bỏ lỡ trong cuộc sống của bạn, bạn mơ
để đền bù lại. Đó cũng là toàn bộ cách tiếp cận của Đạo nữa. Điều Freud nói về
nghĩ, về mơ, cách tiếp cận của Đạo cũng nói về nghĩ i hệt vậy. Và mơ chỉ là một
phần của nghĩ chứ chẳng phải gì khác.
Nghĩ là mơ bằng lời, mơ là nghĩ bằng hình ảnh – đó
là khác biệt duy nhất. Mơ là cách nghĩ nguyên thủy và nghĩ là cách mơ tiến hoá
hơn – văn minh hơn, văn hoá hơn, trí tuệ hơn, nhưng giống hệt – chỉ là hình ảnh
được thay thế bằng lời. Và theo một cách nào đó, vì hình ảnh được thay thế bằng
lời, nó thậm chí đi xa hơn khỏi thực tại, vì thực tại gần với hình ảnh hơn với
lời.
Liệt Tử không phải là nhà tư tưởng. Hãy nhập tâm
điều đó; nó sẽ giúp bạn hiểu được ngụ ngôn của ông. Liệt Tử là nhà thơ, không
phải nhà tư tưởng. Và khi tôi nói “nhà thơ”, tôi ngụ í người tin vào trải
nghiệm, chứ không phải vào suy đoán.
Nhà thơ luôn tìm kiếm. Ông ta tìm cái đẹp, nhưng
cái đẹp không là gì ngoài chân lí thoáng hiện. Chân lí, khi bạn mới thoáng nhìn
thấy nó trong khoảnh khắc, xuất hiện như là cái đẹp. Khi chân lí được nhận diện
toàn bộ, thế thì bạn đạt tới sự biết rằng cái đẹp chỉ là một chức năng của chân
lí. Bất cứ khi nào chân lí tồn tại, cái đẹp đều tồn tại – nó là cái bóng của
chân lí. Khi chân lí được thấy qua màn chắn, nó là cái đẹp; khi cái đẹp lộ
trần, nó là chân lí.
Cho nên sự khác biệt giữa nhà thơ và nhà huyền môn
là không nhiều. Nhà thơ tiến tới gần, còn nhà huyền môn đã tới. Với nhà thơ,
chỉ có những thoáng hiện của chân lí; với nhà huyền môn, chân lí đã trở thành
chính cuộc sống của ông ta. Nhà thơ chỉ đôi lúc mới được đưa tới thế giới của
chân lí và rồi rơi ngược trở lại. Với nhà huyền môn, chân lí đã trở thành nơi
trú ngụ của ông ta: ông sống ở đó; sống như
chân lí.
Nhà thơ tới gần với tôn giáo nhất. Nhà tư tưởng,
nhà triết học, nhà logic học, nhà thần học, nhà khoa học, thì còn rất xa. Toàn
bộ cách tiếp cận của họ là bằng lời. Cách tiếp cận của nhà thơ hiện hữu hơn,
còn cách tiếp cận của nhà huyền môn là hiện hữu tối cao; nó hiện hữu một cách
tuyệt đối.
Đạo nghĩa là hiện hữu trên con đường, và hiện hữu
theo cách mà con đường và bạn không phải là hai thể. Sự hiện hữu này là một –
chúng ta không tách rời nó. Tách rời, í niệm về tách rời, đích thực là ảo
tưởng. Chúng ta nối với nhau, chúng ta là một toàn thể. Chúng ta không phải là
những hòn đảo, chúng ta là một lục địa. Bạn ở trong tôi, tôi ở trong bạn. Cây
cối ở trong bạn, bạn ở trong cây cối. Nó là một toàn thể nối liền với nhau.
Basho đã nói nó như thể là một mạng nhện bao la.
Bạn đã từng thử chưa? Chạm vào mạng nhện ở chỗ bất kì và toàn thể mạng bắt đầu
lắc lư, rung rinh; toàn thể rung động. Chạm vào một chiếc lá trên cây và bạn đã
làm cho mọi vì sao rung động cùng với nó. Bạn có thể không đủ khả năng thấy
điều đó ngay bây giờ, nhưng sự vật có liên hệ sâu sắc tới mức không thể nào
không chạm tới những vì sao bằng việc chạm vào một chiếc lá, chiếc lá nhỏ bé
trên cây.
Cái toàn thể là một – tách rời là bất khả. Ngay
chính í tưởng tách rời là rào cản. Í tưởng tách rời là thứ chúng ta gọi là bản
ngã. Nếu bạn còn với bản ngã, bạn không ở trên con đường, bạn không trong Đạo.
Khi bản ngã được rũ bỏ, bạn ở trong Đạo. Đạo nghĩa là sự hiện hữu vô ngã, sống
như một bộ phận của cái toàn thể vô hạn này, không sống như một thực thể tách
biệt.
Hiện nay, thường là chúng ta được dạy phải sống như
những thực thể tách biệt, chúng ta được dạy phải có í chí riêng của mình. Người
ta đến chỗ tôi và họ hỏi tôi: “Làm cách nào chúng tôi phát triển được sức mạnh
í chí của mình?” Đạo chống lại í chí, Đạo chống lại sức mạnh í chí, bởi Đạo là
vì cái toàn thể chứ không vì bộ phận. Khi bộ phận hiện hữu trong toàn thể, mọi
thứ đều hài hòa. Khi bộ phận bắt đầu hiện hữu theo í riêng của nó, mọi thứ trở
nên phi hài hòa – có bất hòa, xung đột, lộn xộn. Khi bạn không được hợp nhất
với cái toàn thể, sẽ có lộn xộn. Nếu sự hợp nhất với cái toàn thể không xảy ra,
nhất định có lộn xộn. Bất cứ khi nào bạn không cùng cái toàn thể bạn đều bất
hạnh.
Hãy để điều này là định nghĩa của hạnh phúc: Cùng
cái toàn thể là hạnh phúc; cùng cái toàn thể là mạnh khỏe; cùng cái toàn thể là
linh thiêng. Tách rời là không mạnh khỏe; tách rời là loạn thần kinh; tách rời
là rơi khỏi ân huệ.
Sự sa ngã của con người không phải bởi vì con người
không vâng lời Thượng đế. Sa ngã là bởi vì con người nghĩ rằng mình là gì đó.
Sa ngã là bởi vì con người nghĩ rằng mình
là một thực thể tách rời. Điều này thật xuẩn ngốc: bạn không thể tồn tại
nếu cha mẹ bạn không có đó, và cha mẹ của cha mẹ bạn, và cha mẹ của cha mẹ của
họ nữa, cứ ngược trở lại mãi... đến tận Adam và Eva. Nếu Adam và Eva không tồn
tại bạn sẽ chẳng ở đây. Thế nên bạn được nối với toàn thể quá khứ.
Mà Adam và Eva chỉ là huyền thoại. Quá khứ không có
bắt đầu – không thể có bắt đầu nào hết; ngay chính cái í tưởng về bắt đầu là
ngớ ngẩn rồi. Làm sao mọi thứ có thể đột nhiên bắt đầu được? Nó là cuộc diễu
hành vô thỉ những sự kiện. Bạn được nối với toàn thể quá khứ; và bạn cũng được
nối với toàn thể tương lai, bởi vì thiếu bạn thì tương lai sẽ không còn là như
thế nữa. Bạn có thể chẳng là ai cả, nhưng bạn sẽ để lại dấu vết của bạn. Toàn
thể tương lai, toàn thể tương lai vĩnh hằng, sẽ có phẩm chất nào đó bởi vì bạn
hiện hữu. Có thể bạn chỉ hiện hữu trong vòng bảy mươi năm, và trong bảy mươi
năm ấy có thể bạn chỉ hiện hữu một cách có í thức chỉ trong vòng bảy giây,
nhưng bạn sẽ vẫn để lại dấu vết; cái toàn thể sẽ không như thế nữa. Nếu như bạn
đã không có đó, sự việc hoàn toàn khác đi; nhiều thứ bây giờ sẽ khác hoàn toàn
bởi vì bạn đã hiện hữu. Bạn sẽ tiếp tục. Bạn có thể không làm điều gì đặc biệt,
điều gì lớn lao và vĩ đại – chỉ là một cuộc đời bình thường – nhưng bạn sẽ vẫn
ảnh hưởng tới toàn thể định mệnh của hiện hữu.
Quá khứ, tương lai – mà bạn được nối liền – ấy là
chiều của thời gian. Và thế rồi trong không gian bạn được nối với mọi thứ. Cây
cối, mặt trời, mặt trăng, những vì sao... bạn được nối với mọi thứ. Nếu mặt
trời không còn hiện hữu hay đơn giản trở nên lạnh đi, vì một ngày nào đó điều
này nhất định trở thành hiện thực bởi năng lượng đang bị hao mòn hằng ngày...
khoảnh khắc mặt trời lạnh đi, tất cả chúng ta cũng lập tức lạnh đi. Chúng ta sẽ
mất đi cuộc sống bởi cuộc sống cần hơi ấm; thế nên mặt trời đang liên tục ban
cho bạn cuộc sống. Và hãy nhớ trong cuộc sống không có quá trình nào một chiều
– không thể có được. Có cho và có nhận – mọi con đường đều có hai chiều. Nếu
mặt trời cho bạn cuộc sống, bạn cũng phải cho mặt trời cuộc sống theo cách này
cách khác.
Đó là í nghĩa khi George Gurdjieff từng nói với môn
đệ của ông rằng trăng dùng người làm nguồn nuôi. Có khả năng ấy. Bạn dùng động
vật làm nguồn nuôi, bạn dùng cây trái làm nguồn nuôi – mọi thứ đều là thức ăn
cho thứ khác – thế nên sao con người là ngoại lệ được? Gurdjieff có quan điểm ở
chỗ đó. Mọi thứ đều là thức ăn cho thứ khác, thế nên sao con người lại là ngoại
lệ duy nhất không phải là thức ăn cho cái gì? Con người là kẻ ăn của toàn thể
hiện hữu và không phải là thức ăn cho cái gì sao? Điều đó là không thể; mọi thứ
đều ràng buộc. Thế nên ông ấy đã phát minh ra một lí thuyết thú vị rằng con
người là thức ăn cho mặt trăng; mặt trăng ăn con người, ăn tâm thức của con
người.
Và có sự thật trong đó, bởi vì đêm trăng tròn khiến
người ta phát cuồng. Đó là lí do tại sao người điên được gọi là lunatic (người
mất trí) – luna nghĩa là mặt trăng –
moonstruck (người gàn dở). Người mất trí là người gàn dở. Đại dương phát rồ. Có
khả năng là con người cũng phát rồ vào đêm trăng tròn, bởi vì chín mươi phần
trăm của con người là đại dương và chẳng phải gì khác. Chín mươi phần trăm của
bạn là đại dương; bạn được làm thành từ đại dương. Chín mươi phần trăm là nước,
và nước này có cùng vị mặn như đại dương, chính xác cùng tỉ lệ. Thế nên khi đại
dương phát rồ, điều gì đó cũng phải xảy ra trong cơ thể bạn.
Chín mươi phần trăm là đại dương bên trong bạn –cái
gì đó phải phát rồ. Những thi nhân nói rằng họ sáng tác những vần thơ đẹp vào
đêm trăng tròn; những tình nhân nói rằng điều gì đó trở nên vô cùng lãng mạn.
Và giờ đây sự kiện được xác lập rõ ràng rằng người ta phát điên vào đêm trăng
tròn nhiều hơn vào bất cứ đêm nào khác. Số người phát điên ít nhất vào đêm
không trăng, và số người phát điên nhiều nhất là vào đêm trăng tròn.
Có thể Gurdjieff có quan điểm nào đó trong vấn đề
này khi ông nói rằng mặt trăng được nuôi dưỡng bằng tâm thức của bạn. Điều đó
có thể chỉ là hư cấu, nhưng ngay cả hư cấu cũng có một phần chân lí nào đó bên
trong. Và khi một người như Gurdjieff tạo ra hư cấu, ắt phải có một phần chân
lí trong đó.
Cái toàn thể được kết nối. Chúng ta đang ăn, chúng
ta đang bị ăn – từ một phía chúng ta nhận, từ phía khác chúng ta cho. Bạn ăn
táo. Một ngày nào đó, cây táo sẽ ăn thân thể bạn, thân thể bạn sẽ trở thành
phân bón. Khi bạn ăn táo, có lẽ bạn không bao giờ nghĩ rằng cha bạn hay ông bạn
có thể ở trong quả táo và bạn có thể đang ăn bà của bạn hay ông của bạn. Rồi
một ngày nào đó, con cái bạn sẽ ăn bạn.
Mọi thứ đều được kết nối. Tính được kết nối này là
điều được ngụ í bằng từ Đạo: tính
được kết nối, tính được tương kết, tính tương thuộc của tất cả. Không một ai
tách rời, vì thế bản ngã là ngớ ngẩn. Chỉ cái toàn thể mới có thể xưng “tôi”;
những bộ phận không nên xưng “tôi”. Nếu chúng phải xưng, chúng chỉ nên xưng nó
như một hình thức ngôn ngữ, chứ không nên khẳng định cái “tôi”.
Khi bạn tồn tại tách rời khỏi hiện hữu thì bạn tồn
tại trong đau khổ, bởi vì bạn bị ngắt ra; và chẳng ai khác chịu trách nhiệm cho
điều đó – duy chỉ bạn mà thôi. Khi bạn hạnh phúc, hãy quan sát điều gì xảy ra.
Bất cứ khi nào bạn hạnh phúc, bạn không có bản ngã. Vào những khoảnh khắc hạnh
phúc, hân hoan, vui sướng, đột nhiên bản ngã biến mất – bạn tan chảy nhiều hơn
vào cái toàn thể; những ranh giới bớt rõ ràng hơn, những ranh giới mờ hơn. Khi
những ranh giới hoàn toàn mờ đi thì dường như sông đã tan biến vào lòng đại
dương, khi mọi biên giới mờ đi và bạn là một, hòa nhịp đập rộn ràng cùng cái
toàn thể, đó là hạnh phúc.
Chuyện kể ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó, có
một vị vua. Vua có mọi thứ mà ai cũng có thể thèm muốn: của cải, quyền lực, kể
cả sức khỏe. Ông có vợ con, những người mà ông rất iêu, nhưng ông không có hạnh
phúc. Buồn bã và mòn mỏi ông ngồi trên ngai vàng của mình...
Điều đó tự nhiên thôi. Bạn càng có nhiều thứ thuộc
thế gian này, bạn càng có ít hạnh
phúc, bởi vì bạn càng có nhiều thứ thuộc về thế gian này, bản ngã của bạn càng
trở nên mạnh hơn, bản ngã của bạn mạnh mẽ hơn, kết tinh hơn – vì thế mà bất
hạnh. Thế nên chẳng bao giờ nghe nói ông vua nào đã từng hạnh phúc, rất hiếm
khi. Không phải sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Phật và Mahavir rời bỏ vương quốc
của họ và thành kẻ hành khất, và bằng việc trở thành hành khất họ đã tuyên bố:
“Bây giờ chúng ta trở thành hoàng đế”, bởi họ đã trở nên hạnh phúc.
Khất sĩ là người đã lĩnh hội được con đường của
Đạo, và ông nói: “Tôi không còn nữa. Chỉ cái toàn thể là có mà thôi”. Đây là ngụ
í của Jesus khi ngài nói mãi: “Phúc thay người nghèo trong tâm linh, vì sự
nghèo khó của họ là Nước Chúa”. “Nghèo trong tâm linh” nghĩa là người không có
bản ngã, nghèo đến mức thậm chí không có í tưởng về cái “tôi”. Tuy nhiên, về
mặt khác, người đó là người giàu nhất. Đó là lí do tại sao Jesus nói: “Những ai
đứng cuối cùng ở đây sẽ là người đầu tiên trong Nước Chúa của ta”. Người nghèo
nhất sẽ trở thành giàu nhất. Nên nhớ là “nghèo” không ám chỉ khái niệm tài
chính, “nghèo” được ngụ í là người không là gì cả. Bằng việc trở thành cái
không bạn trở thành một phần của cái toàn thể.
Vua phải rất bất hạnh. “Ta phải có hạnh phúc” nhà
vua bảo. Ngự i được triệu tới. “Trẫm muốn hạnh phúc. Hãy làm cho trẫm hạnh phúc
và trẫm sẽ khiến ngươi giàu có. Nếu ngươi không làm cho trẫm hạnh phúc, trẫm sẽ
lấy đầu ngươi”, nhà vua phán.
Quan ngự i bối rối. Phải làm gì đây? Làm cách nào
khiến cho ai đó hạnh phúc? Không ai biết cách nào, không ai từng có khả năng
khiến người khác hạnh phúc. Nhưng nhà vua đã hóa điên và ông ta có thể xử trảm.
Ngự i đáp: “Tâu bệ hạ, thần phải ngẫm nghĩ và tra cứu kinh sách. Sáng mai thần
sẽ đến chầu”. Và ông ta ngẫm nghĩ cả đêm rồi đến sáng đi tới kết luận: “Điều đó
rất đơn giản”.
Ông ta tra cứu sách, nhưng hạnh phúc không được nói
đến trong sách thuốc. Vấn đề thật nan giải, nhưng rồi ông ta cũng bịa chuyện,
ông kê ra phương thuốc. Ông ta nói: “Tâu bệ hạ, bệ hạ phải tìm được chiếc áo
của một người hạnh phúc và lấy nó. Rồi bệ hạ sẽ có hạnh phúc và sẽ biết hạnh
phúc là gì”. Một liệu pháp đơn giản: tìm chiếc áo của người hạnh phúc và mặc nó
vào.
Nhà vua rất hài lòng khi nghe điều này. Vua bảo:
“Đơn giản thế thôi ư?” Vua truyền cho tể tướng “Đi và tìm một người hạnh phúc
rồi đem chiếc áo của hắn về cho trẫm ngay tức khắc.”
Tể tướng ra đi. Ông ta đến chỗ một người giàu nhất
và đòi chiếc áo của ông này, song ông này nói: “Ngài có thể lấy bao nhiêu áo
tùy thích, nhưng tôi không phải là người hạnh phúc. Áo thì ngài có thể lấy bao
nhiêu cũng được, nhưng bản thân tôi không có hạnh phúc, và tôi cũng sẽ phái người
hầu của tôi đi tìm người hạnh phúc và chiếc áo của người đó. Xin đa tạ liệu
pháp của ngài.”
Rồi tể tướng đến chỗ rất nhiều người song chẳng ai
hạnh phúc cả. Tất cả bọn họ đều sẵn lòng, họ nói: “Chúng tôi sẵn sàng hiến dâng
mạng sống của mình miễn là đức vua có thể hạnh phúc. Áo thì nghĩa lí gì chớ?
Chúng tôi có thể dâng cả mạng sống của chúng tôi, nhưng chúng tôi không hạnh
phúc – áo của chúng tôi thì ích gì đâu”.
Thế là tể tướng rất khổ sở. Phải làm gì đây? Bây
giờ ông ta là người có lỗi – viên ngự i đã chơi khăm, thế nên ông ta vô cùng lo
lắng. Rồi ai đó nói: “Đừng lo lắng thế, tôi biết một người hạnh phúc đấy. Và
ngài ắt phải nghe nói về người ấy ở đâu đó, vào lúc nào đó rồi – anh ta thổi
sáo ban đêm, ngay bên bờ sông thôi. Ngài ắt phải nghe nói rồi”.
Tể tướng đáp: “Phải, đôi khi vào nửa đêm ta bị mê
hoặc – những nốt nhạc du dương. Người đó là ai? Người đó ở đâu?”
Người kia thưa: “Đến đêm chúng ta sẽ đi và tìm
người đó. Ông ta luôn tới đó, đêm nào cũng thế”.
Thế là họ đi trong đêm và người đó đang thổi sáo,
điệu sáo du dương vô cùng. Những nốt nhạc ngập tràn vui sướng tới mức tể tướng
cũng thấy hạnh phúc. Ông ta nói: “Giờ ta đã tìm được người ấy rồi!”
Khi họ đến nơi, người ấy ngừng thổi sáo. Người ấy
hỏi: “Các ngài muốn gì?”
Tể tướng hỏi: “Ông có hạnh phúc không?”
Người ấy đáp: “Tôi hạnh phúc, tôi là hạnh phúc. Các ngài muốn gì?”
Tể tướng nhảy lên vì vui sướng. Ông ta bảo: “Bây
giờ ông hãy đưa ta chiếc áo của ông đi!” song người ấy vẫn im lặng. Rồi tể
tướng nói: “Sao ông im lặng? Đưa áo ông đây! Đức vua cần nó”.
Người ấy đáp: “Không thể được, bởi vì tôi không có
áo. Các ngài không thấy được bởi trời tối quá, song tôi đang ngồi trần trụi ở
đây. Tôi sẽ cho áo – tôi có thể cho luôn mạng sống của tôi – nhưng tôi làm gì
có áo”.
“Thế sao ông lại hạnh phúc được?” – tể tướng hỏi.
"Làm cách nào mà ông hạnh phúc được?”
Và người này đáp: “Cái ngày mà tôi mất tất cả – áo
và mọi thứ – tôi trở nên hạnh phúc... cái ngày mà tôi mất tất cả ấy. Thực ra
thì tôi chẳng có gì cả, thậm chí không có cả bản thân mình. Tôi không thổi
chiếc sáo này, cái toàn thể đang thổi nó thông qua tôi. Tôi là vô thực thể, là
cái không, là không ai cả...”
Đấy là í nghĩa của “nghèo trong tâm linh” – là
người không sở hữu cái gì, người không có cái gì, người không biết cái gì,
người không là cái gì. Đạo nói: Khi
bạn không là gì bạn sẽ trở thành tất cả. Tan biến đi và bạn sẽ trở thành cái
toàn thể. Cứ nằng nặc rằng bạn là gì
và bạn sẽ đau khổ.